Chủ Nhật, 31 tháng 7, 2016

CHUNG VUI CÙNG GIA ĐÌNH ANH VÕ QUANG MẠNH K7


Hôm nay ngày 31 tháng 7 năm 2016 ( nhằm ngày 28 tháng 6 năm Bính Thân) gia đình anh Võ Quang Mạnh chs K7 tổ chức Lễ Thành Hôn cho hai cháu Võ Quang Mẫn kết duyên cùng Nguyễn Thị Dung, hôn lễ được cử hành tại tư gia Nam K37/26 Lương Thế Vinh vào lúc 9g00. Tiệc trà chung vui được tổ chức tại Nhà hàng Tiệc cưới BÁCH NGỌC đường 30 tháng 4 Đà Nẵng vào lúc 11 giờ cùng ngày.
 Thầy cô và anh chị cựu học sinh cùng anh chị chs K7 xin chúc mừng gia đình anh chị Võ Quang Mạnh, xin chúc hai cháu Quang Mẫn & Thị Dung trăm năm hạnh phúc.










 Mời quí anh chị xem thêm hình TẠI ĐÂY

Thứ Bảy, 30 tháng 7, 2016

KHÚC HÁT MƯỜI NĂM


Trích trong Tập San kỷ niệm 35 năm thành lập trường:


Từ cuộc lữ đi về trong quán gió
Mây sương giăng tứ phía xuống lưng đồi
Câu hát mười năm phảng phất trên môi
Đâu đó xa xôi một thời giấy trắng

Câu hát mười năm dưới chân đồi quạnh vắng
Còn đó hương thơm trong vở học trò
Mùa phượng hồng trên tóc lá ngây thơ
Đưa hai tay che mặt trời tuổi dại

Như kẻ chăn cừu ngồi mộng trên đồi sao
Tiếng lục lạc chạy vòng quanh vách núi
Là mãi mãi một phương trời biền biệt
Con sáo sang sông không trở lại bao giờ

Chừ đêm xuống của ngàn đêm tóc rối
Mắt đăm chiêu bên hồ rượu vơi đầy
Là Nghĩa ơi ! Trăng đã rụng đồi tây
Cung đàn lạc trôi nhanh về cổ tích.

Từ cuộc lữ đi về trong quán gió
Nghe mùa thu chừng nức nở trong tim
Ba mươi năm còn đốt đuốc kiếm tìm
Con sông nọ cội nguồn kia có phải.

Với tay hái một đóa sầu man dại
Cây đồi xanh kết trái những oan khiên
Ôi thân xác gầy hao theo cành nhánh
Mà bụi giang hồ còn dính nghĩa với ân.
Như con chim ngứa cổ hót khan
Tự trái tim giọt máu hồng tuôn chảy.

Từ cuộc lữ đi về trong quán gió
Nằm nghe mưa kể chuyện mấy mùa đông
Câu hát mười năm bên một giòng sông
Ngày khôn lớn ru ta vào viễn xứ.

Nguyễn Thiên Chương K9








 

THƯ GIÃN CUỐI TUẦN


    Nhân dịp cuối tuần, anh Đoàn Thường K9 thư giãn với:

                       

                           LOÀI SINH VẬT MỚI

                 Ngọc Hoàng chủ tọa buổi chầu giao ban trên thiên đình, đầu tiên là quan Xa lộ:
-          Báo cáo Ngọc Hoàng, con đường Thiên lý thần làm đúng tiêu chuẩn, đúng qui trình từ khảo sát, thiết kế, đến thi công, chất lượng hoàn hảo…tuy nhiên, vừa làm xong, mới đưa vào sử dụng, đã xuống cấp trầm trọng, có chỗ nát như tương bần…
-          Đừng có nói với ta là tại trời nắng nóng, xe đỗ lâu…nghe chưa ?
-          Dạ không, con đường cả chục nghìn tỷ dễ gì nắng  hoặc xe làm hư được, chúng tôi đã tìm ra nguyên nhân rồi, đó là do một loài sâu lạ đục phá, nhưng chưa biết tên đó là sâu gì, chưa có tên khoa học, có lẽ là loài mới do…đột biến mà có.
-          Thế nó ăn thức ăn gì ?
-          Dạ bẩm, nó không hề ăn những thứ cao lương mỹ vị, chúng ăn rất “dân dã”, chỉ xơi nhựa đường thôi, nên đường hư rất nhanh là vì thế !
-          Thế thì đặt tên cho nó là…sâu dân !
    Đến lượt Long Vương Đông Hải:
-          Báo cáo Ngọc Hoàng, bao đời nay thần dân chỗ tôi cai quản sống yên vui, bơi lội tung tăng, sinh sản con đàn cháu đống, thế mà chẳng hiểu vì sao chúng hè nhau chết tiệt, xác trắng bờ, xương trắng đáy biển.
-          Phải có nguyên nhân gì chứ , không lẽ tự nhiên nó chết ?
-          Dạ có, đã tìm ra nguyên nhân rồi, đó là do một loài mọt rất lạ, mới xuất hiện, chưa có tên khoa học, mọt này làm cho cá nhiễm độc chết hàng loạt .
         Suy nghĩ một lúc, Ngọc Hoàng gật gật cái đầu:
-          Thế này, loài mọt này sống trong nước, thì đặt tên cho nó là…mọt nước. Nhưng ta muốn biết, loài mọt này nó ăn gì để sống ?
-          Dạ, báo cáo Ngọc Hoàng, chúng ăn chất thải từ Formosa./.

                                                                                   THƯỜNG ĐOÀN K.9

ĐÔNG GIANG – HOÀNG HOA THÁM


Trích trong Tập san kỷ niệm 35 năm thành lập trường.
Phấn đấu bao năm mới trưởng thành
Trường ba lăm tuổi đã sáng danh
Rời chốn An Hòa sâu kỷ niệm
Đến đất An Trung nặng nghĩa tình
Bão táp phong ba từng nếm trải
Tấm lòng bè bạn vẫn tươi xanh
Ta ngồi ôn lại trong hồi ức
Tình cảm thầy trò đẹp tựa tranh
 Mai Cư 
( chs K1 ĐG, Hiệu trưởng trường HHT)

Thứ Tư, 27 tháng 7, 2016

KÍ ỨC VỀ BẠN







Trích Đặc San ĐG-HHT 35 năm ( 1963-1998)
Tôi là dân Mỹ Khê (Phước Mỹ), còn Quyền quê ở Quế Sơn trôi dạt về chợ Mai, Sơn Trà. Chúng tôi gặp nhau ở ngôi trường Đông Giang. Trường Đông Giang đầu tiên tọa lạc trên bãi cỏ Nại Hiên, mùa mưa ngập nước từ đường cái trút xuống, mùa hè thì cỏ khô như muốn cháy. Sau đó trường dời xuống bãi cát An Trung, An Hải. Gọi là trường cho oai chứ hồi đó khi chúng tôi vào học lớp Đệ Thất( lớp 6) trường chỉ có ba gian nhà tường xây, mái lợp ngói xi măng, không có tường rào, chưa có cổng và văn phòng chỉ là một gian nhà vách ván ghép, lợp tôn.
Thời đó,dân quận III còn nghèo, trẻ em phần lớn thất học từ nhỏ phải theo gia đình đánh cá trên sông biển hay làm nông bên cồn cát đầy phèn cho nên học sinh nào thi đỗ vào trường Đông Giang là một niềm vinh dự rất đáng tự hào.
Nhưng con đường tới trường xa lắc xa lơ, mỗi lần đi và về tính đại khái quanh co khoảng trên chục cây số. Đường có dễ đi đâu ,đôi bàn chân học trò phải băng qua một đồi cát nhấp nhô, có những vũng nước đọng lại do thế đất tự nhiên tạo ra. Rồi lội qua con khe trồng các loại rau, tiếp đến là một đầu rừng đầy bụi gai lưỡi long, gai cầm đường  và um tùm không biết cơ man nào là bụi móc, cọc, sim dai, cỏ cú, cỏ lông chông, gai sầu…Đó là mảnh đất cho những chú chim chiền chiện bay là là hay các chú cuốc giật mình phóng lên. Ngoài ra thỉnh thoảng lại xuất hiện  vài con chồn đen vuột băng  trên đồi cát xa xa, thặm chí có cả những chàng cày hoang, đói meo, ốm teo ngủ quên trong bụi vì lạnh.
Mỗi lần tan học tôi về tới nhà sớm nhất là chạng vạng tối. Mùa hè buổi chiều gặp mưa dông, chúng tôi đua nhau chạy thí xác, gặp bụi dứa có tàn che là nhào đại vô núp, có khi quần áo ướt mem, mực nhòa nước mưa nhòe nhoẹt bao nhiêu trang vở. Nhưng sướng nhất là tắm khe, nước khe mùa hè và thu  vừa trong vừa mát, nhảy xuống quậy tới bùn đến khi đói bụng xót ruột , mò lên vườn nhà ai đó, trộm dưa hồng đánh chén, ăn đến đâu mát đến đó, ăn kềnh  bụng mà không thấy ớn.
Nếu trái đất ¾ là nước thì đất quận III trước đây ¾ là cát. Bước ra khỏi lớp là gặp cát, guốc dép múc vào lớp biết bao nhiêu cát, trực nhật quét  nền sạch rồi, chỉ 5 phút sau sàn lớp phủ đầy” đặc sản” vùng biển. Làm gì có sân chơi cho nên chỗ nào cũng biến thành sân chơi: chơi ngay trên cát, nằm ngồi trên cát, đá banh, chạy nhảy trên cát, xếp hàng vào lớp cũng trên cát nốt. Nhà gởi xe cũng không có. Muốn gởi thì cứ việc dựa vào tường,buổi mai để hiên trước , buổi chiều dắt ra hiên sau, chỉ ưu tiên chiếc”GOOBEN” của thầy Vân thì được gởi trên hành lang hẹp.
Đông Giang của chúng tôi thời ấy tội nghiệp vậy đó! Dăm ba phòng học trơ vơ trên đồi cát hoang vu, chưa có bóng cây cao nên những ngày có gió, đây là mảnh đất tốt để gió tung hoành thoải mái. Nó bốc cát tung lên quật xuống tạo thành đám bụi mù mịt giữa sân, ùa vào lớp học rắc lên trang vở chúng tôi từng lớp mỏng. Mùa đông thì cái lạnh lướt rầm rầm trên mái, chui qua khe cửa len vào giữa lớp học sinh đang cố ngồi xích lại gần nhau. Lớp học vừa lạnh, vừa tối, chúng tôi nghe giảng bài và ghi bài trong bong tối vì tất cả các phòng đều không có điện. Mùa nóng thì như có ai đổ lửa gần đây, cái nóng từ bốn bề hắt lên, ngồi trong lớp nhìn ra sân cứ nheo mắt lại mới thấy những gì ở bên ngoài vì cát và ánh sáng gặp nhau cứ lấp loáng rồi mờ mờ như là ảo ảnh.
Quyền ngồi sau tôi hai dãy bàn.Tôi thì thỉnh thoảng còn đổi chỗ linh tinh, còn Quyền thì không bao giờ, y như thầy giáo đặt đâu ngồi đó. Quyền không đẹp trai nhưng có khuôn mặt vuông  vức, nụ cười tươi  với hàng răng đều. Quyền rất ít nói và học cực kỳ giỏi, môn nào cũng “sơ mi” (đứng nhất). Chữ Quyền đẹp lạ lung, chắc hồi tiểu học là “chuyên gia viết  Luân Hoán”. Trong lớp, tôi là học sinh kém, chưa tháng nào được  đứng vào vị thứ từ 1-20, còn Quyền thì tháng nào cũng có BẢNG DANH DỰ. Nhưng bất ngờ thay, năm đệ lục (lớp 7), thầy Nguyễn Bang vừa là giáo sư Toán,vừa là giám thị đã chấm bài thi của Quyền và tôi ngang điểm nhau (đồng sơmi). Quyền đã  đến chỗ tôi bày tỏ niềm khâm phục trong khi tôi ngượng hơn chi cả. Cũng năm đệ lục đó, tôi lên cơn suyễn kéo dài đến 10 ngày, tưởng không qua khỏi, Mai Lịch(Mai Mộng Tưởng) lên lớp báo động là tôi sắp” đi”. Quyền  tưởng tôi “đi “ thật nên viết sẵn bài văn tế dành cho tôi. Nhưng số tôi còn thọ nên cơn bệnh lai dứt, gặp tôi, Quyền toét miệng đưa bài văn tế. Tôi không ngờ lời văn ai oán thế, càng đọc tôi càng xúc động không chịu nổi và nước mắt rơi trên những dòng văn tế bạn bè viết dành cho tôi.
Sau  cái lần chết hụt ấy, tôi đâm ra có cảm tình với Quyền nhưng không dám chơi  thân. Tôi thì lúc nào cũng quanh quẩn bên Trịnh Dũng,Tăng Nhương, Nguyễn Trí Nghĩ, Nguyễn Đăng Quang,Võ Văn Hóa, Huỳnh Ngọc Tân, Lê Phước Sử, Trần Thanh Bình….Bọn tôi thích thể thao, ưa văn nghệ, khoái tụ họp, đàn đúm, chơi rông rông và là những kẻ không địa chỉ. Lại còn biết thích nhào tối làm quen, nói chuyện tía lia với mấy cô bạn gái cùng lớp. Về mục này thì TD và TN  thường đạt thắng lợi hơn tôi.
Thấy chúng tôi sinh hoạt cũng hay hay nên lớp 9, Quyền làm lễ “ nhập bọn”. Chúng tôi đạp xe đi Hội An, Suối Đá Sơn  Trà, bãi biển Mỹ Khê.Trên bãi biến chúng tôi cũng bày đặt tìm kiếm bong hồng, nhưng chỉ dám ngồi xa ngó tới, đứa nào cũng thách nhau nhưng không đứa nào dám đến gần vì sợ bị hớp hồn. Rồi cũng có những ”khối tình con” ra đời, khối tình ấy cũng mong manh như sợ tơ mành trước gió vì chúng tôi hết ”yêu” người  này tới ”yêu” người khác, đêm về cũng hì hục làm thơ, viết văn và ngày mai cũng “run rẩy” khi ” bạo phổi” trao cho”em” tờ thư dính đầy mồ hôi và cát. Có lúc “em” không thèm nhận. Chúng tôi biến thành Từ Hải chết đứng  giữa trận tiền và chỉ muốn như Tôn Ngộ Không độn thổ để chui ngay xuống cát kẻo cây cỏ sân trường nghiêng ngã những nụ cười.
Mùa hè năm đệ tứ (lớp 9) sắp chia tay nên từng tập lưu bút được  trao cho nhau. Thôi thì viết, rồi lá khô, hoa khô, bướm khô..đầy những trang giấy. Đây cũng là dịp tranh thủ ”dzẽ dzời” bày tỏ tình cảm lâu nay ủ kín. Năm lớp 9 với bao kỉ niệm và chúng tôi nhớ nhất là Đai hội Thể dục Thể thao toàn thành phố Đà Nẵng, Quyền được chọn làm tướng tiên phong đi dầu trong đội ngũ diễu hành của trường Đông giang. Dáng đi oai nghi lưng thắng, đầu ngửng cao, Quyền là niềm tự hào của lớp tôi và toàn trường với những bước đi sải dài theo nhịp quân hành. Có lẽ cũng vì thế mà năm đó trường tôi đạt giải nhất toàn thành phố chăng?



Nguyễn Quyền trong đoàn Diễu hành
Đến năm lớp 10, chúng tôi nam thì học ở Phan Chu Trinh, nữ thì học trường Hồng Đức. May thay mấy đứa chơi  thân với nhau  ở Đông Giang được xếp vào lớp 10B2(ban Toán). Biết phận mình là con nuôi ”con rơi” nên chúng tôi rủ nhau ngồi hai dãy bàn cuối, thầy chủ nhiệm Bùi Đình Nhuận gọi chúng tôi là tổ 4, tổ ngoại ô. Có nhiều kỉ niệm trong những ngày học ở Phan Chu Trinh.Tôi còn nhớ giờ Anh Văn  của thầy Nguyễn Ngọc Kỳ, đến phần luyện đọc thầy gọi tôi dậy phát âm từ” Thank you” tôi buộc miệng phóng ra ngay  tiếng ”bồi”: “Thanh kiều du” thầy Kỳ nhìn tôi chưng hửng còn cả lớp thì cười rầm lên.Chiều hôm đó, Quyền rủ anh em kéo xuống trung tâm dạy tiếng Anh ghi tên thi vào các lớp để học thêm, quyết sẽ rửa sạch cái nhục dốt tiếng Anh. Thú thật chúng tôi không hề phân biệt mình là Đông Giang  hay bạn là Phan Chu Trinh, nhưng dù sao cũng mặc cảm mình là dân ”Bông kia sên” mình là con nhà nghèo nên phải chịu thương, chịu khó nhất là phải giúp nhau ngoi lên. Chẳng mấy chốc, Quyền và vài bạn trong nhóm chúng tôi đã đuổi kịp dân Phan Chu Trinh, tiến lên vị thứ đứng nhì, đứng ba.
Dạy môn Văn lớp tôi là cô Mộng Hoàn, tên cô đẹp, người cô lại trẻ trung, chúng tôi dân ban Toán khô khan  mà rất thích cô, cô thường bắt chúng tôi viết Nhật kí và đưa cô coi, cô bảo đây là cách”dạy”các anh viết văn. Có một bận, cô chọn tổ 4 chúng tôi thuyết trình với đề tài”Chinh Phụ Ngâm Khúc”. Chúng tôi chạy khắp quận III, tìm sách tham khảo bở hơi tai. Nhà ở cách nhau rất xa, thế mà tập trung lại soạn, rồi sửa, thuyết trình thử, canh giờ…Lần đó cô Mộng Hoàn khen tổ 4 nức nở: Bài soạn súc tích, thuyết trình viên lưu loát, trả lời câu hỏi trôi chảy.Thế là “họ” bắt đầu “ngán” dân Đông Giang!.
Năm 1973, kỷ niệm 10 năm thành lập trường Đông Giang, tuy xa trường chỉ mới 1 năm, chúng tôi cũng được gọi là Cựu học sinh. Chúng tôi đang học ở Phan Chu Trinh và Hồng Đức đã kết hợp với nhau ra đời tập san LỐI XƯA- cảm tác từ hai câu ’Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo. Nền cũ lâu đài bong tịch dương” của bà Huyện Thanh Quan. Ngày về trường dự lễ, chúng tôi xúc động trào nước mắt, rồi sau đó vui thật là vui trong không khí đông đúc,vui nhộn, mừng mừng, tủi tủi bên thầy cũ, bạn xưa. Điều sung sướng đến với chúng tôi là ngắm trường đã thấy khang trang hơn, bóng cây bắt đầu tỏa rợp và sân chơi,  nhà xe đã được hình thành.

Trại kỷ niệm 10 năm thành lập trường 
Khi học ở Phan Chu Trinh, có một chuyện mà tôi không thể nào quên và có lẽ bạn bè tôi vẫn còn nhớ mãi. Hôm đó là giờ Pháp Văn (Sinh ngũ phụ), thầy chưa đến, bỗng có bóng người chạy ào vào lớp nhốn nháo tiềm kiếm, mặt mày dữ tợn như vừa đánh lộn với ai. Anh ta quay lại nhìn tôi đang đứng nơi cửa sổ, không hiểu sao tôi lại nở một nụ cườ ” vô duyên”, không có”xuất xứ”. Anhđến bên tôi gầm lên: ”Mày cười ông cái gì?” Tôi chưa kịp trả lời, anh xán cho tôi một bạt tai tóa đom đóm (đến bây giờ vẫn còn đọng dư âm).Tôi chưa kịp lấy lại thần hồn, anh ta định bồi tiếp một cái nữa thì may thay, một bóng người cao lớn chạy tới xô anh ta ra. Đó là Lê Kỳ. Kỳ cung nắm tay lại, xuống tấn, thủ thế. Thấy khó nuốt nỗi Kỳ, anh ta lườm tôi rồi biến. Lê Kỳ cũng là học sinh Đông Giang, rất to con và là “chuyên gia” nhảy phà, dù phà đã ra khỏi cầu bến một, hai thước. Lê Kỳ đã biểu lộ tinh thần mã thượng của một “hảo hán”, vì tình đồng môn, sẵn sàng xã thân cứu bạn.
Lên lớp 11, chúng tôi vẫn được giữ y tổ 4. Lúc này, thầy Nguyễn Đình Trọng (nhà thơ Đông Trình) là giáo sư cố vấn lớp tôi. Thời đó sinh viên Huế- Đà Nẵng trong phong trào phản chiến đều biết nhà thơ Đông Trình. Thầy dạy Văn rất hay và không ngần ngại bày quan điểm chính trị của mình qua các cuộc trò chuyện  với chúng tôi. Năm ấy, trong buổi liên hoan tất niên, thầy tổ chức thi văn nghệ và hứa có giải thưởng nên các tổ đều náo nức. Tổ 4 tôi đề ra các tiết mục: Hợp ca: “Việt Nam quê hương ngạo nghễ” của Nguyễn Đức Quang. Đơn ca:” Một mai giã từ vũ khí”.Quyền sáng tác và ngâm bài ”Mùa xuân tuổi 17” và tôi sẽ làm quản trò một trò chơi tập thể. Cả bọn chúng tôi háo hức kéo nhau về chùa Mỹ Khê để tập dượt. Các bạn tổ khác cũng chơi rất trội: Độc tấu Guitar, Piano, thổi kèn Armonica, hát, nhảy nhạc ngoại quốc tiếng Anh, tiếng Pháp…Nhưng thầy Trọng đánh giá các tổ thiên về kỹ thuật biểu diễn, nặng phần phô trương còn tổ 4 tôi được trân trọng trao hai giải thưởng của thầy với  lời khen ngợi: “Có tinh thần đoàn kết và đi vào chiều sâu”.
Năm nay, khối 11 Phan Chu Trinh được chọn đi diễu hành trong Đại hội Thể dục Thể thao toàn thành phố. Vì biết chúng tôi đã từng đi diễu hành cho Đông Giang nên quí thầy Phan Chu Trinh đã gọi chúng tôi lên để “chọn mặt gửi vàng”. Kết quả lại đứng nhất. Có thể coi đây là nhịp cầu thành tích nối liền giữa hai trường.
Niên khóa 1974-1975 chúng tôi lên lớp 12, những ngày cuối cùng của đời học sinh cũng là ngày quê hương “giải phóng”.Từ đó đến nay, chúng tôi mỗi đứa mỗi nơi: Quyền theo gia đình về Quế Sơn, còn tôi trở thành công nhân nhà máy Cao su Đà Nẵng, bẵng đi một thời gian nghe nói Quyền cùng gia đình đi kinh tế mới ở miền Nam. Hai lớp 9A-9B của chúng tôi ngày ấy thỉnh thoảng gặp nhau trên đường phố, giơ tay vẫy chào rồi đi. Những năm gần đây, chúng tôi tổ chức họp lớp vào mồng 4 tết, không thể nào đông đủ, nhưng dẫu sao cũng là thời khắc quí báu để nhìn những đổi thay trên từng khuôn mặt ngày ấy và kỉ niệm về thầy cô, bạn bè, mái trường vẫn làm xao xuyến  những khuôn mặt dạn dày, phong sương. Nhìn thế hệ em út, con cháu mình nay là học sinh Hoàng Hoa Thám, ai cũng tự hào và càng tin yêu vào thầy cô giáo. Nhớ ngôi trường Đông giang thuở khai sinh chơ vơ trên đồi cát mới thấy sức vươn lên của ngôi trường mới xanh tươi một màu hôm nay.
Hồi ức về bạn bè như là chuyến hành hương quay về miền kỉ niệm, mong ước được chạy về ngồi xuống êm ái trên bãi cát vàng còn in dấu chân thời đi học để có thêm niềm tin yêu mai này dong ruỗi giữa cuộc đời trăm phương nghìn hướng.
Hỗ Văn Ninh K6

 

HÓA THÂN VÁCH ĐÁ




Ta ở đây hoa vàng và lá tím
Núi thì xanh xanh mãi tận chân trời
Cây với cỏ suốt bốn mùa bịn rịn
Chưa một lần nghe sóng vỗ trùng khơi

Và cứ thế rồi cũng thành quen hết
Ta là ta con thác đổ lưng đèo
Ta là ta mây cao dàn trảng rộng
Nắng trong ngần rọi bóng nước trong veo

Ta cũng biết người xa xôi quá đỗi
Lòng mênh mông nào ai thấy bến bờ
Lòng thăm thẳm nào ai dò nông nổi
Một bước vào hun hút cõi hư vô

Thôi thì vậy bạn bè cùng cổ thụ
Nghe lời chim liên tưởng ấy lời người
Cánh bướm chớp từng trang thư gấp mở
Hóa than in vào vách đá nơi nơi

Thầy Trần Huiền Ân

Thứ Bảy, 23 tháng 7, 2016

THƯ GIÃN CUỐI TUẦN





Nhân dịp cuối tuần, anh Đoàn Thường thư giãn với câu chuyện: 
THƯƠNG LẮM “PHỌT- DƠ-RA”


     Xin lỗi, người viết bài này Việt-hóa từ nước ngoài của một khu công nghiệp đồ sộ hơi bị trật, nhưng biết làm sao được, trình độ ngoại ngữ có hạn, trong khi tiếng Việt còn chưa hiểu hết nữa là, mong bà con thông cảm.


     Cá biển chết hàng loạt ư ? Xác cá tấp đầy bờ, dài trên mấy trăm cây số bờ biển ư? Điều có có thật, nhưng sao mọi người lại vội vàng đổ lỗi cho phọt- dơ-ra ? Vô lý, hết sức vô lý, có đến hàng trăm ngàn lý do cá chết, có người hùng hồn khẳng định cá chết là do thủy triều đỏ, thấy chưa ? Có người bảo cá chết do ảnh hưởng động đất ở bên Nhật, thấy chưa? Mặc dù cá bên Nhật không chết, nhưng do cá bên ta nhạy cảm hơn nên chết trước cũng đúng thôi, có người vung tay múa chân trước ống kính rằng …cùng thời điểm này cá biển bên Venezuela, tận xứ Mỹ la tinh cũng chết hàng loạt như ở ta, thì rõ ràng không thể đổ thừa cho phọt- dơ- ra được. Có nhà “phỏng đoán học” còn tìm ra cá chết là do ô- nhiễm âm thanh nữa đó. Tóm lại, hầu hết lý do trên là đáng tin cậy, có vẻ…pha học chứ hoàn toàn không … “mỵ học”, không ba trợn như mấy tên “bá láp học” tào lao, cho rằng cá chết là do…tai nạn giao thông, do không chịu phân luồng khi giao thông, do không chia nhau bơi theo ngày chẳn, ngày lẽ, do không học bơi khi nhỏ…vân vân và vân vân. Nói một cách nghiêm túc, từ những phân tích chí lí ở trên, cá biển chết hàng loạt trên dải bờ biển mấy trăm cây số kia không liên quan đến phọt- dơ-ra, ai nói cá chết là do chất thải từ phọt- dơ ra- là “náo”, nghĩa là “láo” đó, đáng bị vả vào mồm, mà hình như cũng có nhiều người người bị vả đến sặc máu do cái tội nói ẩu nói bừa do…phọt-dơ- ra thì phải. Nước biển mênh mông là thế, bao la là thế, trùng trùng điệp điệp là thế, chất độc đâu cho đủ để đầu độc cho cá chết? Đúng không ? Hơn nữa, phọt- dơ-ra mới vận hành trong giai đoạn thử nghiệm, một vài nhà máy chạy thử, mà mấy trăm cây số biển chết như thế, nếu mai này hoạt động hết công suất, 100% đồng loạt nhả khói thì chết cả biển Thái Bình Dương à ? nói nhỏ nè…nếu cá biển mà chết do chất độc từ khu công nghiệp thải ra là thật, thì chất thải phải là chất cực độc với một lượng thải khủng khiếp chứ chẳng chơi ! Cái này đoán mò vậy thôi, chứ không phải vậy đâu. Nói tóm lại lần nữa, Cá không hề nhiễm độc, biển không hề nhiễm độc từ chất thải của phọt-dơ-ra, điều đó chắc như đinh đóng cột, biển nhiễm độc là do nhiễm từ miệng của mấy tay nhà “báo đời”, và của mấy người dân “thiếu hiểu biết” mà ra, điều đó cũng chắc như.. cột đóng đinh.


     Thương lắm phọt- dơ- ra ơi ! Khi cấp phép thì tất cả đều đúng “qui trình”, tuân thủ nghiêm ngặt luật bảo vệ môi trường nước sở tại, xử lý nước thải nghiêm ngặt, đáp ứng yêu cầu nước thải qua xử lý nuôi cá được mới thải ra môi trường, kể cả đưồng ống thải ngầm dưới biển cũng “đúng qui trình”, nước thải ra giúp cho cá chung quanh đó thở khỏe hơn, sống vui vẻ, mau lớn hơn…thế mà mấy cái mồm thối lại đổ vấy lên phọt- dơ- ra, tội nghiệp !


     Nói nào ngay, cũng có nhiều quan phụ mẫu “thương” phọt- dơ-ra lắm, nên sẵn sàng làm gương ra tắm biển, ăn cá để minh chứng rằng…cá không nhiễm độc, biển không nhiễm độc, rồi từ đó hô hào bà con, cứ ăn cá, cứ tắm biển vô tư đi, bác sĩ bảo…không sao ! Cha mẹ bảo sao thì con làm thế, nhưng cũng có những đứa con ngỗ nghịch không chịu nghe lời, không chịu ăn cá, không chịu tắm biển… còn hổn cãi lại rằng : Khi chưa biết chính xác chất độc từ đâu làm chết biển, mà cha mẹ xúi con ăn… như thế, nếu lỡ chất độc nguy hiểm từ khu công nghiệp thải ra là đúng sự thật, thì đàn con sẽ bị bệnh tật nguy hiểm mà èo uột, co rút chết dần chết mòn trong tương lai, bài học năm 1956 ở vịnh Minamata   của Nhật còn đó, thì cha mẹ... quá .. ! Con cái thật là hổn láo ! May quá, “ơn trời cậu đây rồi”cá chết, biển chết, không phải do… phọt- dơ-ra ! Con cái đáng bị đánh đòn xịt đỏ lắm, cái tội …hổn !


     Mọi chuyện đã rõ: cá chết là do Thủy triều đỏ, mấy người dân hồ đồ đổ vấy cho phọt -dơ- ra, phát  biểu vung vít, thậm chí đánh vỡ mồm người ta, trước tiên phải cúi đầu xin lỗi phọt- dơ-ra, sau đó, nếu dây thần kinh tự trọng chưa bị đứt, hãy  nhanh chóng tuyên bố từ chức để còn chút danh dự mà làm phó thường dân, còn được hưởng khoan hồng  đáng ngờ…“đánh kẻ chạy đi chứ ai đánh người chạy lại”, ở nước ngoài người ta phạm lỗi chút xíu, bằng một phần mười vụ ni là người ta từ chức cái rẹt không suy nghỉ, còn mấy ông dân mình tham quyền cố vị quá, bị đứt dây tự trọng hết rồi hay sao, từ thường dân từ chức xuống phó thường dân cho mấy bà vợ nhờ cũng khó quá trời luôn.


     Phải biết ơn người ký cho phọt- dơ-ra đầu tư, để cho người dân trong tỉnh được đổi đời, nay không những dân trong tỉnh mà dân các tỉnh lân cận cũng đổi đời luôn, khỏi phải đi biển chi cho đen da, vất vả. Lỗi thuộc về người dân “thiếu hiểu biêt”, các vị dân đừng cãi chày cái cối nữa, hãy vì danh dự của mình mà mau hối lỗi trước các quan phụ mẫu, xin lỗi phọt- dơ-ra, đừng cố “cả vú lấp miệng anh” nữa, và cũng đừng lấp liếm nữa, hãy dũng cảm lên, từ chức cái rột.


     Nói đến “lấp liếm” cũng thấy từ điển tiếng Việt sai bét nhè nữa rồi, phải “liếm lấp” mới đúng chứ ? Bởi vì…”liếm” trước rồi mới “lấp” sau, đúng không nào ?



                                                                                         THƯỜNG ĐOÀN  K.9


Thứ Ba, 19 tháng 7, 2016

CHIM VỊT KÊU CHIỀU


(Tặng K.H và K.C)

Con về nhà cũ buồn chưa!
Mẹ cha khuất núi, vườn xưa điêu tàn
Trầu khô, cau rụng võ vàng
Tiếng gà gáy lạnh mấy hàng tre thưa

Nhọc nhằn đời mẹ ngày xưa
Thân cò lặn lội nắng mưa chẳng màng
Hừng đông mẹ đã quá giang
Bến quê chiều xuống đò ngang mới về

Mồ hôi cha thấm ruộng quê
Mùa đông chân nẻ, hè về bỏng da
Ruộng gần… rồi đến rẫy xa
Cho con từng bước vươn ra với đời

Ngày con quê kiểng xa rời
Trong đôi mắt mẹ bao lời thương yêu
Cầm tay cha bảo ban nhiều
Dặn con cân nhắc những điều đúng sai

Con đi… chừng ấy năm dài
Lời cha mẹ dặn vang hoài bên tai
Chợ quê mẹ vẫn hôm mai
Mồ hôi cha vẫn ruộng cày đầy vơi

Chúng con lần lượt xa vời
Biển đời mê mãi – dần lơi nẻo về
Mẹ cha khắc khoải đường quê
Hoàng hôn đã xuống cận kề bên chân…

***
Con về… lòng những bâng khuâng
Đồi quê nhang khói mấy phần quạnh hiu
Thương cha, nhớ mẹ rất nhiều
Ngậm ngùi chim vịt kêu chiều buồn tênh.

PHAN MẠNH THU K9


MÙA VỌNG


Hãy đốt lên em!
Ngọn nến đầu tiên màu tím
Vóc hao gầy điểm xuyết lá thông xanh
Ta nắm tay nhau hướng về mùa vọng
Qua đớn đau, phía trước sẽ an lành

Ngọn nến  thứ hai cũng  màu tím nhé
Cho lửa oan hờn lụi tắt giữa đôi tay
Cho mặt đất tan nhanh ngày bão dữ
Trên quê hương thôi hết cuộc lưu đày (*)

Ngọn nến thứ ba màu hồng- hy vọng
Cây sẽ xanh biêng biếc giữa điêu tàn
Mẹ  ôm con qua mấy lần khô lệ
Ta lại về rũ bỏ áo, khăn tang

Ngọn nến cuối cùng em đốt lên màu tím
Để anh em đứng ngẩng cao đầu
Sẽ bạt hết cuồng điên và tham vọng
Sau lạc loài ta sẽ nhận ra nhau

Em sẽ thấy ngày cuối cùng phán xét
Những bàn tay điểm mặt hết Giu-đa
Vùi cho hết những tận cùng dối trá
Còn trên tay hoa trắng nở thật thà

Huỳnh Văn Mười K7


* (Gr 33,14-16), ngôn sứ Giêrêmia bảo đảm với dân Israel là Thiên Chúa sẽ sai Đấng Messia đến giải thoát họ khỏi cảnh lưu đày. Đó là lần thứ nhất Chúa đến.

Thứ Hai, 18 tháng 7, 2016

ANH CHỊ CỰU HỌC SINH MỜI CƠM THẦY NGUYỄN QUYỀN


  Nhân dịp thầy Nguyễn Quyền về thăm quê, một số anh chị chs mời cơm Thầy tại Nhà hàng Draft Beer 
 







Mời xem thêm hình TẠI ĐÂY

Thứ Bảy, 16 tháng 7, 2016

Niềm Nhớ Khôn Nguôi


Người thương ơi! Anh đã về đây
Hàng cây cao nghiêng bóng nắng gầy
Sân trường đó em đi đâu mất
Chỉ còn anh với lá thu bay
Người thương ơi ! Em đi về đâu ?
Hoa sầu đông rụng trắng mái đầu
Con đường xưa riêng mình anh bước
Biết đâu tìm trong bóng đêm sâu
Mái trường ơi! Kỷ niệm còn không ?
Mùa thu qua sắc nhớ pha hồng 
Cành hoa tím trao em ngày ấy
Một chút tình sao cứ ngóng trông...
Nơi em về ngày có còn vui ?
Hoa phượng rơi kỷ niệm chôn vùi
Áo trắng xưa chìm vào dỹ vãng
Sân trường còn niềm nhớ khôn nguôi...
Nguyễn Tấn Lực K6


THƯ GIÃN CUỐI TUẦN


Nhân dịp cuối tuần, anh Đoàn Văn Thường K9 thư giãn với câu chuyện:


                      KHI NÀO TA GIÀU NHẤT.

       Nghiên cứu "pha học" đã chỉ rằng: Con người giàu có nhất lúc về già, và đây là bằng chứng :
-         BẠCH KIM và BẠC: đầy đầu.
-         VÀNG: trang bị đến tận răng.
-         NGỌC, XÀ CỪ: có nhiều trong túi mật ở gan, ở thận, niệu đạo và bàng quang.
-         ĐỒI MỒI: trang trí đầy trên da.
-         BẤT ĐỘNG SẢN:  có cả một khu… “bất động sản” hoành tráng .


                           VẬY KHI NÀO TA GIÀ?     

            Nghiên cứu "pha học" cho thấy ta đã già:
     -          Luôn mang kính như một nhà trí thức.
-         Thường xuyên ghé tiệm kính để mua kính mới do mất kính cũ.
-         Thích ở nhà hơn là đi chơi.
-         Đến quán nhậu bằng xe máy, nhậu xong đi bộ về nhà.
-         Từ nhà trên xuống nhà dưới để lấy cái gì đó, xong lên lại nhà trên mà chẳng biết lấy cái gì.
-         Hay quan tâm đến sức khỏe, dậy sớm, tập thể dục đều, siêng tới thăm…Bác sĩ.
-         Hay hỏi đi hỏi lại cho rõ.
-         Thường dụi mắt mỗi khi nhìn ai đó…

                                                                      THƯỜNG ĐOÀN  K.9