Chúng tôi xin giới thiệu bài Khói lam chiều của thân hữu Nguyễn Đăng Khoa:
Khói lam chiều
Như muốn giũ bỏ cái vội vả, tất bật, lo toan thường nhật của cuộc sống,
dịp cuối tuần chúng tôi tranh thủ tốt nhất thời gian nghỉ ngơi ngắn ngủi đó,
đưa con chúng tôi về thăm quê Ngoại. Nó không xa thành phố là bao nhưng nó thân
thương được gọi là quê với những cánh đồng lúa vàng bao la, óng ả dọc đường về,
những ruộng muối đang hối hả vào vụ, những cơn gió mát trong lành mang cả hơi mặn
của muối ở vùng quê gần biển... Đó là cách chúng tôi thường làm để cho các cháu
có được nhiều niềm vui, gần gũi hơn với thiên nhiên, được tự do chạy nhảy nô
đùa trong khu vườn nhà rộng rãi (tuy nhỏ nhưng rộng hơn rất nhiều so với nhà của
chúng tôi ở phố). Quan trọng là tạo được tình cảm gần gũi hơn với (ông) bà, với
dì dượng, với anh chị em trong gia đình, họ hàng... Và đó cũng là cách mà chúng
tôi giải stress từ công việc, từ áp lực cuộc sống... tìm về những giây phút thư
giản thật sự thoải mái, nạp năng lượng đón chào ngày mới.
Một lần, trên đường về, ngắm cảnh đồng lúa chín vàng mênh mang, sóng
lúa lượn mình bồng bềnh theo những cơn gió đầu hạ. Trong khung cảnh bao la của
buổi xế chiều ấy qua những cánh đồng bạt ngàn hương lúa, xa xa làn khói từ những
mái nhà, từ những ụn rơm, rạ, cỏ khô... gờn gợn bay lên, tạo cho chúng tôi một
cảnh chiều da diết, một cảm giác trào dâng như được hòa vào thiên nhiên, hòa
vào sợi khói lam chiều mà hương thơm quê, vị ngọt của lúa, mùi bùn ngai ngái của
ruộng đồng đan xen trong làn gió mát đầu hạ, đan xen trong cả những giấc mơ tuổi
thơ nồng nàn.
Như muốn thể hiện chút rung cảm với cảnh chiều
quê yên bình đó, với những làn khói lam mờ mờ ảo ảo khiến cảnh chiều như hư như
thực... Tôi chia sẻ ngay bằng những lời tứ tuyệt của Điều Ngự Trần Nhân Tông:
Thôn hậu, thôn tiền đạm tự yên,
Bán vô, bán hữu tịch dương biên.
Mục đồng địch lý quy ngưu tận,
Bạch lộ song song phi hạ điền.(1)
Bán vô, bán hữu tịch dương biên.
Mục đồng địch lý quy ngưu tận,
Bạch lộ song song phi hạ điền.(1)
Bài thơ trên được Ngô Tất Tố dịch Nôm như
sau:
Trước xóm sau thôn tựa khói lồng,
Bóng chiều man mác có dường không.
Mục đồng sáo vẳng trâu về hết,
Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng.
Bóng chiều man mác có dường không.
Mục đồng sáo vẳng trâu về hết,
Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng.
Lướt qua quan điểm mang tính "thiền định"
trong bài thơ vì nhiều người nhận xét rằng: "Thơ Trần Nhân Tông là sự hòa
điệu giữa thơ và Thiền, dùng thơ để ngụ Thiền, dùng Thiền để nói thơ (dĩ thi
thuyết Thiền, dĩ Thiền ngụ thi)", tôi chỉ muốn mượn nét đẹp chân chất, thuần
phát, tự nhiên trong cảnh chiều buông ở Thiên Trường mà cảm nhận cảnh quê hiện
tại theo không-thời gian rộng mở bốn chiều: từ gần đến xa (“thôn tiền”, “thôn hậu”),
từ thực tại: con đường làng trên đồng ruộng với các chú mục đồng cùng đàn trâu trong
chiều tà khuất dần vào trong thôn xóm, đến không gian từ cao xuống thấp: những
cánh cò trắng từng đôi liệng xuống đồng và cả tâm cảnh của lữ khách trước cảnh
quê, cảm nhận cả mùi hương lúa, rơm rạ khô và cả mùi sông nước, mùi bùn ngai
ngái thoang thoảng trong gió... Ôi, cảnh chiều thật dung dị, yên ả và thanh
bình biết bao.
Trên xe bỗng yên lặng, thoáng yên lặng lạ
lùng đến nỗi tôi nghe được sự đồng cảm nhưng mơ hồ qua tiếng thở dài khe khẽ của
các con tôi ngồi sau... Để khác hơn, tôi chọn vài lời trong "Cảnh chiều
hôm" của Bà Huyện Thanh Quan mà tỏ
ra tâm đắc:
Trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn, (2)
Tiếng ốc xa đưa vẳng trống dồn.
Gác mái, ngư ông về viễn phố,
Gõ sừng, mục tử lại cô thôn...
Tiếng ốc xa đưa vẳng trống dồn.
Gác mái, ngư ông về viễn phố,
Gõ sừng, mục tử lại cô thôn...
Bài thơ đã vẽ ra một "Cảnh chiều"
buồn man mác, tâm trạng hoài cổ đượm sự cô đơn trống vắng. Với cách sử dụng
điêu luyện một vài Hán từ điểm xuyến trong lời thơ, Bà đã làm cho bài thơ trở
nên thanh tao, giản dị nhưng trữ tình, sâu lắng, tạo ra một nét đẹp nghệ thuật
đích thực trong toàn thi phẩm...
Tôi vừa đọc, vừa
chia sẻ những cảm nhận của mình cho nhà tôi, cho các con trên xe cùng nghe và
thao thao bất tuyệt giảng giải,
cắt nghĩa những Hán từ mà con tôi gặn hỏi trong cái chút hiểu biết, học lỏm được. Bỗng như sực nhớ ra, dường như
những lời thơ như vậy còn khá xa so với cảm nhận của tuổi mấy con tôi khi đang
còn trong giai đoạn tiểu học. Chúng có vẻ ngơ ngác nhưng vẫn cố im lặng, lắng
nghe để hiểu. Nhà tôi tinh ý, thay vào đó nhà tôi đọc chậm rãi như hát vài lời
"Quê hương", do cố nhạc sĩ Giáp Văn Thạch phổ thơ Đỗ Trung Quân, như
muốn cùng chia sẻ với các con, với cả nhà và với cả... chính mình khi ký
ức tuổi thơ tràn về theo cánh diều bay cao trong vòm trời xanh bát ngát của đồng
quê:
"Quê hương là chùm khế ngọt
Cho con trèo hái mỗi ngày
Quê hương là đường đi học
Con về rợp bướm vàng bay
Quê hương là con diều biếc
Tuổi thơ con thả trên đồng
Quê hương là con đò nhỏ
Êm đềm khua nước ven sông
Mẹ về nón lá ngiêng che
Quê hương là đêm trăng tỏ
Hoa cau rụng trắng ngoài thềm..."
Hoa cau rụng trắng ngoài thềm..."
Lời bài hát "Quê hương" mà nhà tôi đọc qua, vẽ lại một bức
tranh thơ mộng với nhiều ký ức tuổi thơ đan xen, bồng bềnh trôi như cánh diều
trên trời không, bao la và sâu thẳm...
Hai đứa con tôi có vẻ thích thú với những lời hát, lời thơ đó vì đã nhiều
lần nghe qua, ít nhiều đã thuộc và thấy gần gũi hơn. Con trai thì im lặng, có vẻ
tư lự, vút tầm mắt ngắm nhìn cảnh quê trãi dài, xa tít tận phía chân trời, thỉnh
thoảng đảo mắt theo những cánh cò liệng chao, hay những chú trâu, đàn bò đang
còn ung dung gặm cỏ trên đồng.
Chợt, để hòa chung niềm say mê cảnh quê thân thương, đáng yêu đó, con
gái tôi đọc vang những câu thơ đã học thuộc lòng, như muốn cùng san sẻ với cả
nhà:
"Chiều chiều từ mái rạ vàng
Xanh rờn ngọn khói nhẹ nhàng bay lên.
Chăn trâu ngoài bãi, bé nhìn
Biết là bếp lửa bà nhen chiều chiều.
Xanh rờn ngọn khói nhẹ nhàng bay lên.
Chăn trâu ngoài bãi, bé nhìn
Biết là bếp lửa bà nhen chiều chiều.
Nghe thơm ngậy bát canh riêu
Với nồi cơm ủ cạnh niêu tép đầy.
Với nồi cơm ủ cạnh niêu tép đầy.
Khói ơi, vươn nhẹ lên mây
Khói đừng bay quẩn làm cay mắt bà!" (3)
Khói đừng bay quẩn làm cay mắt bà!" (3)
Tôi nghe qua thấy hay quá. Đó là
một bức tranh rất quê, mộc mạc, chân chất nhưng tuyệt đẹp qua lời thơ con tôi đọc
lên. Như muốn nghe lại để cố thuộc ngay, tôi yêu cầu con tôi đọc thêm nhiều lần
nữa cho đến khi tôi... thuộc nằm lòng mới thôi. Và cứ muốn nhắc đi nhắc lại 2
câu cuối trong bài:
"Khói ơi, vươn nhẹ lên mây
Khói đừng bay quẩn làm cay mắt bà!"
Khói đừng bay quẩn làm cay mắt bà!"
Đó là một hình ảnh tả thực nhưng
chuyển tải một ý rất thơ, rất nhân văn, cao cả và tuyệt đẹp! Với tôi, đấy là
hình ảnh đẹp và sáng nhất của bài thơ. Với cách sử dụng từ ngữ gần gũi, nhẹ
nhàng, Hoàng Tá đã khắc họa một bức tranh quê đẹp dịu dàng, nét đẹp của người
dân Việt chân quê, gắn liền với nền văn minh lúa nước ngàn đời, với những
"cơm ủ", "niêu tép", "canh riêu"... dân dã mà nồng
nàn thơm ngậy, chan chứa tình cảm tràn đầy của gia đình, của bà và cháu.
Chiều dần tàn cũng là lúc những cảnh
quê hiền hòa và nên thơ đó đã thấp thoáng xa dần. Chúng tôi tiến gần hơn về
thành phố, gần hơn với cái náo nhiệt, ồn ào, vội vã vốn dĩ trong tiếng còi inh ỏi,
xe cộ tấp nập ngược xuôi, người người qua lại tít tắp...
Dừng xe, tôi bước vào nhà, rót tách
trà thơm đưa lên môi giải cơn khát. Hương thơm của trà... Cả hương lúa, hương
khói lam chiều của rơm, rạ trên đồng như đang còn luẩn quẩn đâu đây. Văng vẳng
trong tôi là hình ảnh gờn gợn, khẽ bay lên của "Khói chiều" mà tôi đọc
đi đọc lại nhiều lần vẫn thấy hay hoài:
"Khói ơi, vươn nhẹ lên mây
Khói đừng bay quẩn làm cay mắt bà!"
Khói đừng bay quẩn làm cay mắt bà!"
Đặt tách trà xuống, nhìn xa xăm,
một cơn gió nhẹ chợt thoảng qua, tôi cảm thấy mình như được nạp đầy năng lượng
cho những ngày mới còn rất dài phía trước.
(Cảm nhận lần về thăm nhà -
Nguyễn Đăng Khoa (Phương Phương) - Chớm
Hạ, 2014)
Ghi chú:
(1) Đấy là bài “Thiên Trường Vãn Vọng” với nhiều cách dịch thơ. Bài dịch sau của Trần Lê Văn (được GS. Nguyễn Khắc Phi đánh giá cao):
Thôn trước thôn sau nhạt khói lồng,
Bóng chiều nửa có nửa hư không.
Đi trong tiếng sáo trâu về hết,
Cò trắng song song liệng xuống đồng
Và đây là bài dịch của hai anh em chúng tôi (Tiếng-Khoa):
Trước, sau thôn dã tựa khói mờ
Thực ảo trời chiều nửa tỉnh mơ
Rãi bước trâu về theo sáo vẳng
Từng đôi cò trắng liệng đồng thơ.
(2) Nhiều sách ghi câu thơ đầu là “Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn”. Tuy nhiên, tôi vẫn thích trích & đọc lại như trên hơn.
(3) Bài thơ với tựa “Khói chiều” của Hoàng Tá – in trong sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 3 hiện nay (của con gái tôi).
(1) Đấy là bài “Thiên Trường Vãn Vọng” với nhiều cách dịch thơ. Bài dịch sau của Trần Lê Văn (được GS. Nguyễn Khắc Phi đánh giá cao):
Thôn trước thôn sau nhạt khói lồng,
Bóng chiều nửa có nửa hư không.
Đi trong tiếng sáo trâu về hết,
Cò trắng song song liệng xuống đồng
Và đây là bài dịch của hai anh em chúng tôi (Tiếng-Khoa):
Trước, sau thôn dã tựa khói mờ
Thực ảo trời chiều nửa tỉnh mơ
Rãi bước trâu về theo sáo vẳng
Từng đôi cò trắng liệng đồng thơ.
(2) Nhiều sách ghi câu thơ đầu là “Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn”. Tuy nhiên, tôi vẫn thích trích & đọc lại như trên hơn.
(3) Bài thơ với tựa “Khói chiều” của Hoàng Tá – in trong sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 3 hiện nay (của con gái tôi).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét