Tôi vinh dự được quen biết thầy như một cái duyên qua một câu chuyện
của một người yêu thơ - anh Nguyễn Đăng Khoa - đi tìm tác giả bài thơ
bài học thuộc lòng Chuyến Đi Dài, tôi cũng xin cảm ơn và rất nể trí nhớ
của người bạn đồng môn - chị Nguyễn Linh Phượng - đã comment dưới entry”
Đi tìm tác giả bài thơ Chuyến Đi Dài” trên trang Đông Giang: Theo
trí nhớ của thời còn học Tiểu học (Sau hơn 40 năm, trí nhớ
không biết có rơi rớt hay không), thì bài thơ này LP được học
trong quyển QUỐC VĂN TOÀN THƯ lớp Nhất. Tác giả là Trần Huyền
Ân (nhà thơ này trước 1975 cũng khá nổi tiếng)…
Từ những
thông tin trên, chúng tôi mừng lắm và cứ search tìm, nhưng chỉ có tác
giả Trần Huyền Ân hoặc Trần Huiền Ân sau 75 làm nghề tự do, ông tên
thật là Trần Sĩ Huệ hiện ở 20/3 Chu Mạnh Trinh, Tp Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên
có nhiều tác phẩm như Tiếng Việt Giàu đẹp: Ăn uống nói cười & khóc và các tập Thơ: Thuyền giấy, Năm năm dòng sông thơ, Lời trên lá, Rừng cao.
- Truyện: Tiếng hát nhân ngư, Một nửa chân trời, Mùa hè quê ngoại, Khói của ngày xưa.
Tìm mãi cũng không thấy có tài liệu nào là Trần Huyền Ân hay Trần Huiền
Ân là tác giả bài thơ "Chuyến đi dài", sáng hôm sau khi đến chỗ làm,
việc đầu tiên chúng tôi liên lạc ngay với tổng đài 1080 ở Phú yên qua mã
vùng 057 để xin số điện thoại ông Trần Sĩ Huệ, cô NV tổng đài cho xin
số điện thoại nhà 057.382..., vừa hồi họp vừa vui mừng nhưng chúng tôi
cũng xin hỏi lại lần nữa có phải ông Sĩ Huệ ở 20/3 không cô, cô nhân
viên thưa đúng. Chúng tôi điện số điện thoại mà cô NV tổng đài vừa cho,
gặp một phụ nữ nói giọng còn khá trẻ,
- Thưa chị, chị vui lòng cho chúng tôi gặp anh Sĩ Huệ,
- Anh Huệ vừa đi cắt tóc.
- Xin lỗi chị, anh Huệ có phải là tác giả bài thơ Chuyến Đi Dài
-
Đúng là bài thơ của "nhà tôi", bài nầy lâu lắm rồi, anh Vũ Dzũng bạn
của anh Huệ có chấp bút viết tiếp đoạn từ Hiền Lương trở ra phía Bắc,
số di động của anh Huệ 0935...
Chúng tôi không dám điện vì ngại
anh đang cắt tóc, canh chờ thời gian anh cắt tóc xong chúng tôi điện cho
anh, giọng anh rất trẻ và như chúng tôi đã nói có lẽ do một phần bài
học thuộc lòng Chuyến Đi Dài của anh làm chúng tôi luôn hình dung anh
vẫn trai trẻ :
“ Biết bao giờ cho thỏa được lòng trai
Chân bé quá, không mang hài vạn dặm..”
Tôi xin phép được gọi anh và xưng em từ buổi sáng hôm đó. Sau nầy được biết về anh: "
3 tác phẩm đầu tay của tôi đều đăng ở tuần báo Văn nghệ Tiền phong năm
1957. Nhận được bài của tôi họ nhắn trên hộp thư là sẽ đăng và đề nghị
gửi tiếp. Khi đã có 5-6 truyện họ đăng liên tiếp trong 5-6 tuần, nhờ vậy
tạo được một ấn tượng, độc giả biết đến mình nhanh hơn. Sau này cộng
tác với tạp chí Bách Khoa, tôi quen được nhiều bạn văn nghệ, kể cả những
người lớn tuổi và có uy tín. Hồi ấy tôi thuộc loại trẻ, cả tuổi đời lẫn
tuổi văn. Năm 1960 (23 tuổi), sau 3 năm dạy học tôi cộng tác với các
nhà giáo viết phần học thuộc lòng cho sách giáo khoa 5 lớp bậc tiểu học:
Quốc văn toàn tập, Việt ngữ tân thư. Năm 1963 tham gia soạn bộ Tân Việt
văn. Nhiều người cứ nghĩ phải “già” mới soạn được sách giáo khoa, tôi
cho là không đúng...
Mặc dù chưa được anh trực tiếp giảng dạy,
nhưng biết anh là tác giả 80% trong sách giáo khoa Tân Việt Văn lớp Nhì,
lớp Nhất mà hồi xưa chúng tôi đều đã được học.. từ đó chúng tôi xin
phép được gọi bằng Thầy, một xưng hô đúng nghĩa.
Thầy có kể cho chúng tôi nghe về bài học thuộc lòng Quê Em của thầy mà tình cờ thầy gặp lại trong Thơ Tình Miền Nam 1975 gio-o.com và chị Nguyễn Thị Hải Hà hiện định cư tại New Jersey, Hoa Kỳ có viết trong bài "Đọc Thơ Tình miền Nam 1975 do Gió o tuyển chọn" với phần mở đầu :
"Tôi
không nhớ tôi bắt đầu được tiếp xúc với thơ từ lúc nào. Có lẽ từ khi
tôi nghe những câu hò điệu hát ru em. Vào tiểu học tôi thích những bài
thuộc lòng vì đó là những câu thơ có vần và giàu âm điệu. Bài học thuộc
lòng tôi học từ năm lớp Ba đến giờ này tôi vẫn còn nhớ nguyên bài bắt
đầu với những câu:
Khi khôn lớn rộng đường ra hải ngoại
Nếu có người muốn biết rõ quê em
Mở bản đồ em sẽ chỉ người xem
Đây nước Việt bốn ngàn năm yêu quí ..."
Sau khi bài Đọc Thơ Tình Miền Nam 1975 do Gió o tuyển chọn đăng lên Gió
O, thầy Trần Huiền Ân liên lạc với Gió O, cho biết bài học thuộc lòng
này là tác phẩm của thầy in trên Tân Việt Văn (1964).
Nhân dịp nầy thầy xin chép lại bài thơ mà theo thầy là theo trí nhớ, tựa đề bài thơ này là Quê Em:
Khi khôn lớn rộng đường ra hải ngoại
Nếu có người muốn biết rõ quê em
Mở bản đồ em sẽ chỉ người xem
Đây nước Việt bốn ngàn năm yêu quí
Quê em có núi rừng nung chính khí
Ngọn Hoàng Liên chót vót đội trời xanh
Dãy Trường Sơn như một bức liên thành
Chân trải rộng miền cao nguyên màu mỡ
Quê em có hai cánh đồng vạn thuở
Vẫn còn xanh thắm thiết Bắc Nam Trung
Dâng lúa ngô nuôi nòi giống oai hùng
Mỗi trang sử ghi một lần thắng lợi
Quê em có ba dòng sông chờ đợi
Hòa niềm vui trong lòng mẹ biển bao la
Bùn Cửu Long Giang, đất đỏ Nhị Hà
Pha trộn nước dòng sông Hương trong suốt
Quê em đấy dáng hình tuy gầy guộc
Nhưng biết bao nhiêu cảnh trí hữu tình
Để ai qua cũng cảm thấy lòng mình
Quyến luyến mãi và hẹn ngày trở lại.
(Tác giả Trần Huiền Ân)
( Do không có link dẫn mà phải vào trong gio-o.com để tìm, chúng tôi xin
được đăng lại bài Đọc Thơ Tình Miền nam 1975 do Gió O tuyển chọn dưới
đây)
Chúng tôi có hỏi thầy về những bài thuộc lòng khác, thầy nói:
Những bài thơ trong sách giáo khoa ngày trước rất tiếc không còn, năm ấy
thầy đã không lưu lại. Cũng từ khi biết thầy là Hội Viên Hội Văn nghệ
dân gian VN, anh Võ văn Chương một cựu học sinh Đông Giang đang ở Hoa kỳ
có gửi thư cho thầy muốn hỏi về một số bài vè " Ba tôi vốn là dân
ghe bầu, ngày xưa ghe bầu của ngư dân đi vùng biển không có bản đồ hay
la bàn mà họ đặt ra bài vè từ Móng Cái đến Cà Mau. Họ đến đâu đọc vài
câu vè là người thủy thủ biết vùng này là vùng nào. Tôi còn nhớ mấy
người thủy thủ cho bà tôi đọc vè rất hay", thầy cho anh biết đây là
bài Vè Các Lái còn gọi là Hò các lái, Hò thủy trình thật ra là một bản
tổng kết hải trình của các ghe bầu theo tuyến Bắc- Nam và ngược lại,
như:
Ghe bầu đã qua tỉnh Phú Yên và bắt đầu đi vào vùng biển tỉnh Khánh Hòa :
Đầu ghềnh mũi NẬY de ra
Qua hai mũi ấy, đó là Ô RÔ
Mũi NẬY có đá bia xinh
Tạc để lưu truyền nối nghiệp Hùng Vương
Ô RÔ núi tấn bốn phương… ( Ô Rô là Vũng Rô)
Vừa nồm vừa bấc biết xô phía nào
Hòn NƯA không thấp không cao
Ngước mắt trông vào bãi VÕ sóng ngang..
Hôm nay chúng tôi cũng vừa nhận được tập thơ Rừng Cao mà thầy gửi tặng qua đường bưu điện, theo Việt Báo tên và bút danh của Thầy ghép lại thành Ân Huệ, nhắc “kẻ sĩ” nhớ ơn cuộc đời,
chúng tôi mời Thầy có dịp ghé Đà Nẵng, thầy tâm sự lâu rồi thầy không
đi Đà nẵng, Thầy có mấy người bạn văn nghệ và nhà giáo ở Đà Nẵng (Ngọc
Mân -cha Nhật Ánh-, Phạm Ngọc Lư), Tam Kỳ (Huỳnh Hoan, Sơn Nhân), Thăng
Bình (Xuân Tùng), Nha Trang (Trần Văn Kim, Ngô Văn Ban), một số anh em
Quảng nay ở SaiGon (Tường Linh, Phan Đắc Lữ) và nước ngoài (Luân Hoán
v.v...) , thầy cũng kể "Mấy ngày nay qua chuyện văn thơ, rất vui, hôm
12/12 ngày kỉ niệm hàng năm của thầy và Vũ Dzũng ( anh Vũ Dzũng hiện
công tác tại Nhà Xuất Bản Hội Nhà văn tại Saigon), thầy có thư cho anh
Vũ Dzũng về việc này, anh Dzũng cũng vui lắm".
Qua email thầy cũng
gởi lời thăm đến thầy cô và anh chị cựu học sinh trường Đông Giang, các
bằng hữu đã quan tâm đến bài "Chuyến đi dài", như các anh chị của anh
Nguyễn Đăng Khoa, chị Linh Phượng...
Hẹn với lòng mình có dịp chúng tôi cùng anh Nguyễn Đăng Khoa ( ở Nha Trang ) được một lần ghé thăm thầy tại quê hương Tuy Hòa.
TN K6
Xin mời Đọc Thơ Tình Miền Nam 1975 Gió o tuyển chọn của chị Nguyễn Thị Hải Hà
Tôi
không nhớ tôi bắt đầu được tiếp xúc với thơ từ lúc nào. Có lẽ từ khi
tôi nghe những câu hò điệu hát ru em. Vào tiểu học tôi thích những bài
thuộc lòng vì đó là những câu thơ có vần và giàu âm điệu. Bài học thuộc
lòng tôi học từ năm lớp Ba đến giờ này tôi vẫn còn nhớ nguyên bài bắt
đầu với những câu:
Khi khôn lớn rộng đường ra hải ngoại
Nếu có người muốn biết rõ quê em
Mở bản đồ em sẽ chỉ người xem
Đây nước Việt bốn ngàn năm yêu quí [1]
. . .
Dịch giả Nguyễn Ngọc Bích nhận xét “Người Việt thường tự xem mình là nhà thơ. . .” nguyên văn “The Vietnamese like to think of themselves as having always been poets...”[2]
Ông cũng nói thêm điều tự nhận này tuy dễ bị xem là phóng đại cũng
chuyên chở phần nào sự thật. Với tôi thì khác. Nếu thơ là tôn giáo của
thi sĩ thì tôi là người ngoại đạo. Tôi không có khả năng sáng tác thơ dù
tôi thích đọc thơ. Tôi trích dẫn câu văn trên để nói rằng vì nhiều
người Việt Nam làm thơ, thơ trở nên phổ thông và đến với người đọc rất
tự nhiên. Có thể nói thế hệ của chúng tôi, người nào cũng biết vài bài
thơ, thuộc vài câu thơ. Thơ làm tôi ngẩn ngơ, tự hỏi vì sao chỉ vài câu,
một số chữ, nhà thơ có thể tạo nên ý tứ, âm điệu, và hình ảnh để chuyên
chở cảm xúc làm rung động người đọc như thế. Thơ, luôn là một cái gì
rất kỳ diệu, như ánh trăng rơi trên lòng bàn tay, thấy nhưng không nắm
bắt được.
Ba trăm hai mươi mốt bài thơ tình viết trước tháng 4 năm
1975 của ba trăm hai mươi mốt nhà thơ miền Nam do chị Lệ Liễu chủ biên
sưu tập và tuyển chọn, những nhà thơ này là ai? Bên cạnh các tên tuổi
lớn như Nguyên Sa, Nguyễn Tất Nhiên, Vũ Hoàng Chương, Thanh Tâm Tuyền,
Vũ Hữu Định, Trần Dạ Từ. . . số còn lại là đám đông thầm lặng, là sinh
viên, học sinh, quân nhân, khách hàng của quán cà phê, những kẻ rong
chơi, và có rất nhiều anh chàng. . . mê gái. Chỉ dựa vào các dữ kiện chị
Lệ Liễu cung cấp, có độ chừng một trăm tác giả sinh vào thập niên 40,
hơn chục tác giả sinh vào thập niên 50, năm mươi tác giả sinh vào thập
niên 30 và chỉ dăm ba tác giả của thập niên 20 hay trước nữa. Cao tuổi
nhất là cố thi sĩ Đông Hồ sinh năm 1906 và trẻ tuổi nhất là nhà thơ
Nguyễn Nhật Ánh sinh năm 1955. Do hoàn cảnh, chúng ta khó biết rõ ràng
và chính xác thân thế tác giả của những bài thơ này, ngoại trừ một số
nhà thơ hiện nay sống ở hải ngoại và vẫn tiếp tục làm thơ; tuy nhiên,
chúng ta có thể nhìn thấy bóng dáng tác giả qua lời thơ bởi vì “The poet is a reporter interviewing his own heart.[3] (Thi sĩ là người phóng viên tự phỏng vấn tâm hồn).
Khác với người viết truyện ngắn hay tiểu thuyết, có thể xây dựng nhân
vật không mang bóng dáng tác giả, thơ phát xuất từ tâm hồn và vô thức
của nhà thơ vì thế nhân vật trong thơ phần lớn là hình ảnh của tác giả.
Harold Bloom, học giả và phê bình gia người Hoa Kỳ quan niệm rằng thơ
chỉ là những ứng đối lập luận của các nhà thơ với nhau, của người làm
thơ thời sau trả lời với người làm thơ thời trước có thơ hay và nổi
tiếng hơn (lớp hậu bối)[4]. Độc giả có thể không đồng ý với ông già
“rộng họng” này nhưng tôi tạm tin vào lập luận của ông. Tôi muốn tìm
hiểu ba trăm hai mươi mốt nhà thơ này nói gì với nhau, với thế hệ của
họ, và với thế hệ trước họ. Người đọc thời bấy giờ cảm nhận bài thơ theo
tâm thức của người thời bấy giờ. Tôi thuộc lớp hậu sinh muốn tìm hiểu
quan niệm về tình yêu trong xã hội miền Nam lúc bấy giờ mà các nhà thơ
đã bộc lộ qua những câu thơ họ viết.
“Thơ là bức tranh biết nói, tranh là bài thơ không lời.”[5]
Nhà thơ bộc lộ những khoảnh khắc của tâm hồn đồng thời cũng vẽ lại bức
tranh của xã hội. Tôi ngạc nhiên và thú vị khi nhận thấy rằng dù sống
trong chiến tranh triền miên, các nhà thơ đã không oán ghét xã hội hay
thù hận đối phương. Họ ghét chiến tranh, xem chiến tranh như một đại họa
đến từ bên ngoài chứ không phát xuất từ xã hội họ đang sống. Họ không
xem những người chiến đấu bên kia chiến tuyến với họ là kẻ thù, không mơ
ước một ngày nào đó sẽ chiến thắng kẻ thù. Suốt ba trăm hai mươi mốt
bài thơ tôi không nhớ đã một lần nào nhìn thấy chữ chiến thắng hay chiến
bại.
Họ, các nhà thơ trong tuyển tập Thơ Tình Miền Nam, vẫn còn
mang nét lãng mạn của các nhà thơ thuộc thế hệ trước như Xuân Diệu, Hàn
Mặc Tử, và Lưu Trọng Lư. Họ cùng biểu lộ mơ ước yêu và được yêu. Tình
yêu ở đây không chỉ giới hạn ở tình yêu trai gái mà nới rộng ra cho cả
tình yêu quê hương và đồng bào. Họ mơ ước hòa bình về trên quê hương
Việt Nam. Họ phác họa hoàn cảnh xã hội của những năm có “ánh sáng hỏa châu rọi đường trong đêm sương mù,” và “đôi mắt van lơn trước hầm giây thép gai” (Đào Trường Phúc, Thư Tình Mùa Hạ).
Trong cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn, hoàn cảnh đất nước bị chia cắt, Chu Sơn đã bộc lộ ước mơ thống nhất.
em chẳng đến chẳng đi
ta chẳng tìm chẳng đợi
Sài Gòn không xa Hà Nội cũng không xa
cát bụi mười phương họp về chung một chiếu
rong rêu khắp thế giới ba ngàn
cùng hát bài ca huyền diệu
(Chu Sơn, Bài Ca Chuyển Kiếp, Tập san TƯ TƯỞNG số 8 Năm thứ Tư tháng 10 năm 1971)
Trong khi đất nước đang mong chờ hòa bình về với hiệp định Genève, Trần Dzạ Lữ bày tỏ ước mơ:
Gắng lên em, hòa bình sắp ló dạng
Ta sẽ về đồng ruộng dưới quê xưa
Hôn lá hôn cây hôn trời hôn đất
Sau chiến tranh, tình nối lại đôi bờ
(Trần Dzạ Lữ, Thư Cho Người, Bách Khoa số C, ngày 14-12-1972)
Đỗ Chu Thăng mơ ước ngày hòa bình, được trở lại ngôi trường tiểu học nơi có cô giáo trẻ, và ông sẽ:
Trên bục gỗ anh tìm hương ngày cũ
Nơi trang bài tuổi đợi giấc mơ xuân
. . .
Như hong ấm món tình xưa đã nguội
Trời tháng hai gay gắt nắng hung vàng
(Đỗ Chu Thăng, Hong Chút Tình Xưa)
Hạ Đình Thao nhớ nhung:
Vẫn phải hẹn như những mùa xuân trước
Sẽ về thăm một bận xóm làng xưa
Đã mấy năm trời quê người xuôi ngược
Vẫn thương hoài giọng hát bến đò trưa
ông mong tìm lại hình ảnh mẹ già với chợ làng:
Quang gánh mẹ những sớm chiều tần tảo
Chợ làng xa, thiếu hụt sống qua ngày
Chừng năm tháng cũng quen niềm cơm áo
Gói trọn cuộc đời trăm mối chua cay.
(Hạ Đình Thao, Tình Xuân, Bách Khoa số 315, ngày 15-2-1970)
Chiến
tranh gây phân ly. Trong khi người ở lại quê nhà mong chờ chinh nhân
như sương khói thì Hoàng Ngọc Châu nơi biên ải mơ màu áo người thấp
thoáng bên bờ dậu cố hương:
Bao nhiêu rượu uống cũng không vừa
Ơi áo ai vàng cuối dậu thưa
Người có về qua vườn hạnh cũ
Lòng son thiếu nữ có như mơ
Rượu ơi sao rượu mãi chưa cùng
Say với ta mà mơ cố hương
Nam nhi chinh chiến hề quan ải
Chinh chiến người đi như khói sương
(Hoàng Ngọc Châu, Chiều Quan Ải, Bách Khoa số 318,1 tháng 4 năm 1970)
Nhu
cầu của con người là thương yêu và được thương yêu. Mấy mươi năm chiến
tranh đã làm tan nát bao nhiêu cuộc tình vì thế thơ tình miền Nam thường
biểu lộ nỗi buồn của chia ly, tan vỡ và mơ ước được trở về, ở gần bên
để được đưa đón người yêu.
Anh đi rồi còn ai đưa đón
Áo em bay khuất mất thiên đường
Tuổi hai mươi vòng tay níu gọi
Ngôn ngữ nào anh nói yêu thương
(Chu Trầm Nguyên Minh, Lời Tình Buồn)
Tô Thùy Yên, tuyệt vọng trong nỗi chia xa, đã ngậm ngùi than:
Anh yêu em, yêu nuối tuổi hai mươi,
Thấy trong lòng đời nở thật lẻ loi
Một cành mai nhị độ.
Thấy tình yêu như vận hội tàn đời
Để xé mình khỏi ác mộng
Mà người đàn ông mê tưởng suốt thanh xuân.
Ôi tình yêu, bằng chứng huy hoàng của thất bại !
(Tô Thùy Yên, Chiều Trên Phá Tam Giang)
Cũng trong bài thơ này Tô Thùy Yên đã mơ ước một cuộc đàm đạo với người lính bên kia chiến tuyến:
Khi tưởng tượng ngươi cùng ta gặp gỡ
Ôi cõi âm nào ngươi vốn không tin
Hỏi nhau chơi thỏa chút tính bông đùa:
Người cùng ta ai thật sự hy sinh
Cho tổ quốc Việt Nam – một tổ quốc...?
Có tình yêu nào mà không mơ ước được hạnh phúc, Trần Kiêu Bạt bày tỏ sự mơ ước này trong bài thơ không vần:
Mùa thu nào anh ước mơ cùng em đi về
khu vườn địa đàng – giăng tay hái sao
làm hạt giống trồng cây ái ân giữa lòng
thung lũng in đầy những dấu chân chim.
(Trần Kiêu Bạt, Khúc Mùa Thu, trích tuyển tập thơ LÁ - nhiều tác giả - Hồn Trẻ 20 xuất bản tại Sàigòn 1967)
“Cuộc
sống thường ngày được chụp bắt trong các bức ảnh làm bằng những chữ, và
đôi khi ta thấy cuộc sống không phải luôn là dễ chịu. Tuy nhiên thi ca
không buộc phải nắm bắt điều dễ chịu, đúng hơn là nó nắm bắt cái yếu
tính và linh hồn của trải nghiệm thường ngày.”[6] Đã có lần tôi nhận
xét khó mà tách rời người lính, nhà văn, và nhà thơ trong tác giả Trần
Hoài Thư và nhận xét này được xác định khi người lính đã dùng thơ kể lại
trải nghiệm một ngày nhàn rỗi vì không phải đi hành quân. Một ngày
không dễ chịu với ký ức đau buồn của cuộc chiến nhà thơ bày tỏ mơ ước
xóa bỏ biên giới thù hận giữa hai người lính của hai miền:
…
Nhớ nó ngã nhào trên bờ đá xám
Thấy cả ngọn đồi những xác Bắc Nam
Cô hàng ơi cho một ly không
Tôi rót mời một người lính Bắc
Hắn nằm banh thây dưới hầm bí mật
Trên người vẫn còn sót lại bài thơ
Trên đồi cao, mây vẫn xanh lơ
Có con bướm vàng dịu dàng dưới nắng
Tôi với hắn, đâu có gì thống hận
Bài thơ nào cũng viết để yêu em
(Trần Hoài Thư, Một Ngày Không Hành Quân)
Có
lẽ chỉ có người lính mới thấu đáo sự gian truân trong cuộc đời quân
ngũ. Trong khi những người trang lứa ngồi trong lớp học hay đi phố với
người yêu, có một người lính trong cái nắng thiêu người, tự nguyện làm
kẻ ăn xin, cầu với đấng tối cao, không phải cho hạnh phúc bản thân mà
cho niềm tin của nhân loại.
Mười hai giờ trưa mặt trời đứng bóng
Ngả mũ sắt ngồi lên
Làm tên hành khất
Để mà cầu xin
Không phải cho lính thù chết hết
Nhưng cho con người niềm tin
(Ý Yên, Lời Nguyện Giờ Trưa, Tạp chí Bách Khoa số 308, ngày 1 tháng 11 năm 1969)
Với
hơn ba trăm bài thơ, để tránh tình trạng bối rối của người bị lạc vào
rừng thơ, tôi chia ra các bài thơ này thành nhiều nhóm nhỏ. Nhiều nhất
là số bài thơ về tình yêu lứa đôi diễn tả nhớ nhung, giận hờn, mơ mộng,
tan vỡ, . . . của các tác giả danh tiếng như Nguyên Sa, Du Tử Lê, Hoàng
Anh Tuấn, Hoàng Trúc Ly, Nguyễn Tất Nhiên, Trần Huiền Ân, Trần thị Tuệ
Mai, Minh Đức Hoài Trinh, cùng với nhiều nhà thơ danh tiếng khác. Những
bài thơ tình này chiếm được lòng yêu của độc giả và rất phổ biến qua
những ca khúc. Kế đó là số bài thơ viết về tình yêu trong chiến tranh
nổi tiếng không kém của các tác giả Linh Phương, Lê thị Ý, Lý Thụy Ý, . .
. những bài thơ này tôi xin được viết riêng trong một dịp khác. Trong
bài này tôi xin giới hạn sự tìm hiểu của tôi về chủ đề tình dục trong
thơ tình miền Nam với một vài chi tiết tôi cho là thú vị. Người đang yêu
có nhu cầu nói về cái hay cái đẹp của người yêu. Các nhà thơ trong khi
say sưa biểu lộ tình yêu qua thi ca cũng nói lên quan niệm thẫm mỹ của
họ. Nàng thơ thường là người đẹp. Người đẹp có mắt nai, môi hồng, dáng
gầy như hạc, bàn tay thon, áo dài trắng, gót chân son, và tóc mây.
Qua vườn bông vải nghe chim
Trắng hoa lá nhớ người em thuở nào
Mười năm sách vở ra sao?
Rừng mây tóc rũ ta xao xuyến lời
(Cao Trường Huy, Qua Vườn Bông Vải, Bách Khoa 380, tháng 11-1972)
Tóc mềm bềnh bồng như mây nhưng đủ quấn rối làm Nguyễn Tất Nhiên “quị té trên đường rồi, sợi tóc ôm chân người.”
Chu Ngạn Thư ngấm biểu lộ chi tiết tình dục qua hình ảnh ngậm tóc người tình trên môi:
dẫu gì thì anh cũng đã yêu em
giữa sương sớm, ngày nồng và đêm mượt
anh đã yêu nên lòng như lễ rước
tóc mai người ngậm ngọt ngang môi
ẩn chứa dấu vết cuồng nhiệt của ái ân qua dấu răng
dẫu gì thì ta chẳng thể chia phôi
khi tình đã tụ nên rừng cỏ ngọt
dẫu gì thì chiếc răng thơm đã trót
vỡ trên vai từng dấu vết nồng nàn
(Chu Ngạn Thư, Những Ngày Xa Cách)
Cái đẹp của phụ nữ là những nét dịu dàng, mong manh như trinh nữ nhẹ nhàng như mùa Thu:
Bước rất nhẹ như vẫn còn đứng lại
Bước rất nhẹ như mùa Thu con gái
Như bàn tay khẽ hái tiếng đàn tranh
Như chưa lần nào em nói: yêu anh
(Hoàng Anh Tuấn, Bài Thơ Còn Lại)
Thơ
tình trong chiến tranh nói về sự chia xa, nỗi ngậm ngùi của sương phụ,
cái đau đớn của người tật nguyền đáng được trân trọng chú ý bằng một bài
viết dành riêng cho chủ đề này; tuy nhiên, tôi xin được đề cập thoáng
qua vì không thể nào không chú ý đến nỗi đau chất ngất giữa những hàng
chữ trong thơ.
Lỡ mai hoà bình ta về xe đẩy
Chiều qua nhà em có tiếng ai cười
Ngỡ ngàng về nhanh bàn tay run rẩy
Cúi xuống vụng về để nước mắt rơi
Lỡ mai hoà bình ta về nạng gỗ
Khập khễnh bước đi buồn khóc một mình
Em ở lầu cao gieo cầu chọn lựa
Họ chen lấn giành ta đứng làm thinh.
(Hồ Chí Bửu, Chiều Nằm Trên Lô Cốt)
Người ngoài mặt trận thương nhớ người nơi quê nhà:
em ở đầu kia cuộn chỉ thần
thoáng nghe tàn bạo tiếng thời gian
chừng đôi năm nữa khi rời lính
tôi sẽ lên rừng sống ẩn thân
(Lâm Hảo Dũng, Tôi Vẫn Biết Em Buồn Bên Mái Lá)
và những giọt nước mắt nhỏ cho người nằm xuống mà cũng khóc cho phận đàn bà:
Ngày mai đi nhận xác chồng
Say đi để thấy mình không là mình
Say đi cho rõ người tình
Cuồng si độ ấy hiển linh bây giờ
Cao nguyên hoang lạnh ơ hờ
Như môi thiếu phụ nhạt mờ dấu son
Tình ta không thể vuông tròn
Say đi mà tưởng như còn người yêu
(Lê Thị Ý, Thương Ca 1)
khi người đàn bà trẻ phải một mình nuôi con vì chồng đang ở trong trại nhập ngũ:
Buổi sáng thăm chàng ở trại nhập ngũ số 3
buổi chiều ở Saigon ngó ngực Diễm Thúy
buổi tối về nhà nghe nhạc Phạm Duy
nửa đêm chợt khóc khi con bú.
(Nguyễn Thùy Song Thanh, Chủ Nhật 65)
Bên cạnh những hình ảnh lãng mạn của tiếng
đàn tranh, áo sương mù, tuổi mười ba, trăng mười sáu, dòng sông trắng,
tóc mây trời, tuổi ô mai, tay hoàng yến, lòng hương cốm, tay lá sen, . .
. các nhà thơ của chúng ta bước vào cuộc chiến tranh khi họ đang
vào đỉnh cao của tuổi trẻ, sức sống tràn trề mà trước mặt họ toàn là
chiến tranh và cái chết. “Romantic love is sexually passionate love.
Romance uses sexual intimacy to create or amplify closeness and mutual
fulfillment.”[7] Breggin định nghĩa: “Tình yêu lãng mạn của đôi
lứa là tình yêu chất chứa đam mê tình dục. Tình yêu lãng mạn dùng sự
thân thiết có dục tính để tạo ra hay tăng cường sự gần gũi và thỏa mãn
cho nhau. Sigmund Freud quan niệm bản năng của con người là tự bảo tồn.
Sinh sản là để tự bảo tồn và nhu cầu tình dục phát sinh từ khuynh hướng
tự bảo tồn.[8] Nói như thế có nghĩa là tình dục luôn đi kèm với tình
yêu đôi lứa. Tôi muốn tìm hiểu xem các nhà thơ Việt Nam biểu lộ khuynh
hướng tình dục trong thơ như thế nào? Họ có yêu cuồng sống vội để khỏa
lấp nỗi sợ hãi của cái chết và quên đi tương lai đen tối? Nhà thơ Cao
Thoại Châu cho biết: “Thơ tình miền Nam trước 1975 là một mảng của
tấm lụa là gấm vóc chứ không phải ‘hiện sinh chủ nghĩa’ hiểu một cách
bệnh hoạn là ‘yêu cho gấp và yêu bất kể chết’ kia đâu.”[9] Tuy tôi
rất tin lời nhà thơ và nhà giáo Cao Thoại Châu, tôi vẫn muốn tìm hiểu
các tác giả trong tuyển tập thơ tình miền Nam đã biểu lộ tình dục qua
thơ như thế nào.
Cái say đắm trong bài thơ Yêu của Hồng Khắc Kim
Mai làm tôi liên tưởng đến cái cháy bỏng đau đớn vì đam mê trong thơ
của Hàn Mặc Tử:
Khi người áp môi chuyền tai ta hơi thở
Ta rúng người da say mùi cỏ dại
Ta dang mồm ưng nuốt cả trời mây
Ta đê mê nghe tim rớt vỡ hoang đầy
Ta cuồng dại rên tên người trong tiếng khóc
Môi ta khô ran mắt ngời sao lửa bốc
Ôi tình yêu ôi tin yêu vàng ngọc
Hồn ta quằn quại sảng khoái tới thịt xương
(Hồng Khắc Kim Mai, Yêu)
Ngụy
Ngữ không nói nhiều, chỉ một câu để diễn tả nỗi nhớ khi thôi nhau: “Còn
chỗ em nằm chăn xô chiếu lệch.” (Ngụy Ngữ, Thôi Nhau)
Nguyên Sa kín đáo hơn khi ông bảo “Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát, bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông.” tôi nhìn thấy cái thèm muốn được sờ, được chạm, được ôm vào trong tay để cảm được cái mát mẻ của làn da dưới lần lụa.
Nguyễn Lương Vỵ bóng bẩy và ngọt ngào, đầy nhục cảm nhưng không kém trữ tình:
Thôi đêm lá gục bên trời
Hương trăng xưa ngọt khướt lời ở đây
Rót từ một cốc trên tay
Tim tôi thành sữa pha đầy ngực em
(Nguyễn Lương Vỵ, Tim Tôi)
Khi
cái nắng ban trưa của Nguyên Sa trở nên dịu mát nhờ làn áo lụa thì nắng
trưa lại khiến một nhà thơ khác nhớ những cuộc ái ân.
tìm nhau về giữa ban trưa
khơi con nắng dậy cho vừa ái ân
(Nguyễn Đức Bạt Ngàn, Hương Cau)
Nguyễn
Miên Thảo diễn tả sự khoái cảm tuyệt đỉnh bằng cách cho “hai người chìm
vào cơn bão mật.” Phạm Trường thẳng thắn hơn, nhà thơ này có rất nhiều
bài thơ nồng nàn mùi da thịt (tôi tìm thấy trong Thơ Tình Miền Nam của
Thư Ấn Quán), và bài Ngàn Năm Con Gái của ông là một bài tiêu biểu:
Người con gái ấy có vòng ngực đam mê giấc mơ xuân tình hàm răng vô tội
em là men rượu thần tiên
anh yêu em không còn gì nghi hoặc.
(Phạm Trường, Ngàn Năm Con Gái)
Ngay cả nhà thơ tu sĩ Phạm Thiên Thư cũng khẽ khàng những câu thấp thoáng dục vọng nhưng cũng thấm đẫm mùi Thiền:
Mốt mai ta có luân hồi
Tái sinh lại giữa khóe môi em hồng
Ngâm mình tiếng suối nước trong
Ta siêu theo cánh phượng hồng em bay
Mốt mai ta có lưu đày
Thì xin trọn ngực tóc mây yên nằm
Và:
Thôi thì em nguyện lâm râm
Cho ta ngửi nẫu môi trầm Như Lai
(Phạm Thiên Thư, Khúc Tự Tình Phù Du)[10]
Có
thể nói Quách Thoại là nhà thơ cao niên hơn nhiều nhà thơ xuất hiện
trong tuyển tập, từ bài thơ Trăng Thiếu Phụ ông đã có thoang thoáng nỗi
khao khát của người đàn bà trẻ qua những câu “đã mấy đêm trường em không
ngủ, nằm thao thức nhớ mảnh trăng lu,” Bài thơ sau đây ông viết mãi từ
năm 1963, khi ấy phụ nữ Mỹ chưa có cuộc cách mạng tình dục, mà thơ của
ông đã rừng rực lửa tình yêu:
Em sâu kín giữa đôi đường mũi nhỏ
Em nở nhụy giữa đôi môi hồng đỏ
Căng căng mềm ứ đọng sữa tình tươi
Và ngậm hở đợi chờ ai hôn đó
Và:
Thân hình em uốn khúc quá yêu quen
Cả người em ướm chất lửa thơm men
Trên ngực đồi vú sen còn kín búp
Hương trinh tiết vẫn còn nguyên ẩn núp
(Quách Thoại, Em)
Nhà
thơ Vũ Hoàng Chương yếu đuối ẻo lả như thế nhưng thơ của ông cũng đầy
những khát khao của da thịt nào là “Hồn ngả lâu rồi nhưng chân còn dẻo,”
và:
Lưng mềm, não nuột dáng tơ
Hàng chân lả lướt
Đê mê hồn gửi cánh tay hờ.
Bốn tường gương điên đảo bóng giai nhân
Lui đôi vai, tiến đôi chân,
Riết đôi tay, ngả đôi thân
. . .
Say đi em! Say đi em!
Say cho lơi lả ánh đèn
Cho cung bực ngả nghiêng, điên rồ xác thịt.
. . .
Có ai ghì hư ảnh sát kề môi.
Chân rã rời
Quay cuồng chi được nữa
Gối mỏi gần rơi
Trong men cháy, giác quan vừa bén lửa
(Vũ Hoàng Chương, Say Đi Em)
Từ Thế Mộng đưa cái đẹp nhục cảm đến mức thượng thừa qua mái tóc ướt và phần áo dính da:
Không phải suối
Không phải sông
Mà ướt đầm mái tóc
Không phải rực vàng
Một màu hoa cúc
Mà đơn sơ áo ướt một đôi vùng
Em tắm biển về biển ướt ở sau lưng
Vàng mấy khoảng cho mặt trời tới đậu
Độc giả tưởng tượng đi, “Vàng mấy khoảng cho mặt trời tới đậu ” nồng nàn gợi cảm hơn cả câu hát của Trịnh Công Sơn “em đi về cầu mưa ướt áo” Trịnh
Công Sơn chỉ mới cầu cho mưa thôi còn ở đây đôi mắt của tác giả đã gắn
chặt vào phần áo ướt dính sát lưng thiếu nữ. Và đôi mắt dõi theo lưng áo
màu hoa quỳ như đóa hoa quỳ quay theo hướng mặt trời.
Nghiêng theo em như thể đóa hoa quỳ
Ôi màu vàng đâu thể dễ phải đi
Màu vàng không phai
Mặt trời vẫn ướt
Nên phương em lẽo đẽo một phương quỳ
(Từ Thế Mộng, Một Phương Quỳ)
Phạm
Công Thiện thì dùng ngôn ngữ nói về hành động ái tình trực tiếp nhất dữ
dằn nhất, đọc bài thơ này ai mà biết ông đã từng là nhà tu:
tôi giao cấu mặt trời sinh ra mặt trăng
tôi thủ dâm thượng đế sinh ra loài người
cho quế hương nằm ở nhà thương điên của trí nhớ
mặt trời có thai!
mặt trời có thai!
sinh cho tôi một đứa con trai mù mắt
Nhà
thơ Kiệt Tấn, viết bài thơ Bãi Biển khi ông hai mươi hai tuổi, đã để
nhân vật trong bài thơ khoe với độc giả sự thành thạo trong việc cởi áo
người tình:
“Anh nhớ rõ từng nốt ruồi anh đếm được trên lưng em L. ơi!”
Chữ
L. sau chuyện cởi áo làm tôi liên tưởng đến Lolita và những chữ L.
(viết hoa và viết tắt) phải lập lờ uốn lưỡi. Không thể bảo ông viết tục,
chỉ có thể chê tôi nghĩ chuyện tục.
hơi hướng da thịt em sẽ nhạt mùi trên da anh và đấy mới chính là gương mặt u buồn thực sự của tình yêu phải không em?
(Kiệt Tấn, Bãi Bể)
Lê
Vĩnh Thọ diễn tả sự ngây ngất của người hưởng thụ hoan lạc tỉ mỉ với
những chi tiết làm người đọc liên tưởng đến cuộc truy hoan, bắt đầu từ
bộ ngực, nhưng ngôn ngữ trong toàn bài thơ không có chút nào trây trúa
tục tằn.
Ngực em
Như đôi chim bồ câu trắng nhỏ
Xinh xắn đáng yêu
Ngoan ngoãn dịu dàng
Đang âu yếm nằm thu mình bên nhau
Thở phập phồng êm ái
. . .
Tôi hăng hái nhưng nhẹ nhàng thận trọng
Ôm đôi chim bồ câu gọn gàng trong lòng đôi bàn tay thân mật
(Lê Vĩnh Thọ, Thử Phác Họa Chân Dung Tình Yêu, Văn Học –Giai phẩm Mùa Xuân 1975, phát hành ngày 20 tháng 01 năm 1975)
Du Tử Lê không kém nồng nàn với những câu:
nôi tương tư cỏ ấm thịt da người
tôi hiu hắt từ mắt em ngắt tạnh
môi thâm khô từ thuở định xin hôn
Các
nhà văn Hy Lạp thời cổ khi viết huyền thoại đã cho Aphrodite, nữ thần
tượng trưng cho dục vọng, kết hợp với thần chiến tranh Ares, sinh ra
Eros, thần ái tình. Có phải họ quan niệm tình dục được dùng để quên đi
nỗi sợ hãi cái chết do chiến tranh gây ra? Có phải một số nhà thơ miền
Nam đã dùng tình dục để lấp đầy những trống vắng trong tâm hồn khi đối
diện với chiến tranh, có nghĩa là đối diện với hoang mang thất lạc,
thiếu thốn vật chất, hành trình gian nan, và thậm chí cái chết trong
tương lai gần?
Thân thể nàng đó với biển cồn chăn gối
Tôi gọi tên tôi thảng thốt từng đêm
Con rắn lưng trần trườn mình nhễ nhại
Giấc ngủ lăn trên hơi thở nặc nồng...
(Minh Hân, Khuôn Mặt Tình yêu)
và:
ôi năm năm dài ta tới lui nồng nhiệt
ta được ngủ bờ ngủ bụi giữa sình lầy
ta được chuyện trò cùng muỗi mòng đỉa vắt
ta được ăn gạo hẩm cơm thiu
ta được uống nước đìa ung rữa
ta được trực thăng vận kích đêm
ta được thủ dâm từng cơn ham muốn
ta được ngửi xác thối máu tanh
ta được nhớ em tận cùng nỗi nhớ
(Hà Nghiêu Bích, Thơ Viết Từ Một KBC)
Nguyễn Đăng Hà cho nhân vật trong bài thơ hôn nhau ở góc phố ông cảnh sát phải làm ngơ. Nguyễn Hữu Nhật nhớ hơi người:
Sợ nhất lúc buông nhau mùa gió
bao nhiêu chăn phủ chẳng ấm đời
Giường gỗ mộc run lên tiếng lạnh
nhớ hơi người đến chết mất thôi
(Nguyễn Hữu Nhật, Tháng Mười Ở Đâu)
Nói
về thơ tình của tuổi trẻ miền Nam làm sao mà quên được Nguyễn Tất
Nhiên, chàng thi sĩ mãi mãi làm người thất tình có lẽ nếu không thất
tình ông không thể làm thơ. Nguyễn Tất Nhiên mang những câu rất lạ và
rất bạo vào thơ. Không có ai dám làm những câu thơ “kỳ thị” mắng con gái
Bắc điêu ngoa nhưng giả bộ thật thà, dám phạm thượng so sánh em hiền
như ma soeur. Bài thơ Oanh của ông được chọn trong bộ thơ tình không chất ngất tình dục mà chỉ nhẹ nhàng:
Hy vọng vuốt ve sau lần thất thế
chàng vuốt ve tình nóng hổi bàn tay.
Chẳng
biết tình của Nguyễn Tất Nhiên là gì, nằm ở đâu mà nóng hổi? Có phải
như Robert Frost đã nói “Poetry provides the one permissible way of
saying one thing and meaning another.” (Thơ cho chúng ta được phép dùng
câu nói này để ám chỉ điều khác.)
Ngy Cao Nguyên là một họa sĩ táo bạo. Hãy nghe ông tuyên bố:
có thể anh còn đang khỏa thân
trầm mình trong suối nhạc da đen
cho đã cơn buồn những âm thanh điên
có thể anh còn mang kiếp trâu đen
thích cày bừa trên những cánh đồng chiêm
thân hình em thơm ngát
(Ngy Cao Nguyên, Những Màu Cho Chân Dung Em)
Nhìn
chung, đề cập đến tình dục, các nhà thơ tình miền Nam vẫn bóng bẩy tao
nhã chứ không tục tằn. Rất hiếm khi họ dùng những chữ trực tiếp hay táo
bạo về bộ phận sinh dục. Thơ tình miền Nam phần lớn theo chủ nghĩa lãng
mạn. Họ ca tụng cái đẹp của thiên nhiên, tình yêu, và con người. Ngay cả
khi nói về chiến tranh và cái chết họ vẫn có cách thể hiện rất đẹp,
không thô bạo. Lâu dần, cái đẹp trở thành khuôn mẫu. Cái đẹp trong thơ
của chủ nghĩa lãng mạn trở nên giống na ná với nhau như những cô người
mẫu trình diễn trên catwalk. Sau khi nhìn vài chục gò má cao, chân dài,
răng đều như riến người ta bỗng thèm một chút gì phá cách như chú ý đến
một cô gái không đẹp bằng nhưng lạ hơn nhờ cái răng khểnh hay nước da
ngăm. Tuyển tập Thơ Tình Miền Nam do Gió O xuất bản giống như một loại
rượu nho quí tìm được trong hầm rượu cũ. Loại rượu đặc biệt do một giống
nho chỉ có trong thời kỳ ấy, ướp bằng nắng của mùa ấy, mọc trong đất
của khu rừng nho ấy. Người thời ấy thưởng thức rượu lúc ấy chắc chắn sẽ
thấy mùi vị khác với tôi người thưởng thức cũng loại rượu ấy nhưng mấy
mươi năm sau. Tôi không khỏi bùi ngùi luyến tiếc biết rằng mùa mới sẽ có
rượu mang hương vị mới nhưng rượu cũ sẽ không còn vì dù có giống nho,
sẽ không bao giờ có lại được nắng và đất của thời xa xưa ấy.
Chị Lệ-Liễu đã tâm sự, về những khó khăn chị gặp phải, trong bài tản mạn Tìm Lại Một Thời Thơ Yêu[11]
và tôi rất thông cảm với chị. Ba trăm hai mươi mốt bài thơ không phải
là con số gây ấn tượng nếu đem so với nền văn học miền Nam từ năm 1954
cho đến năm 1975 nhưng sưu tập và chọn lựa hơn ba trăm bài thơ đòi hỏi
nhiều công sức. Độc giả cũng biết ba trăm hai mươi mốt bài thơ không
thể là tiêu biểu của thơ miền Nam, cũng như một bài thơ của một tác giả
cũng không thể là tiêu biểu của một tác giả. Với những học giả nghiên
cứu, số lượng bài thơ có thể không đủ để nhận định về một thời điểm huy
hoàng của nền văn học Việt Nam nhưng với tôi, cũng đủ để tưởng nhớ thời
vàng son của thơ như nhìn những mảnh bát đĩa vỡ chôn vùi dưới đáy biển
mà tưởng tượng đến một triều đại gốm sứ Chu Đậu huy hoàng của triều Lý.
Nguyễn thị Hải Hà
27.07.2012
[1]
Sau khi bài Đọc Thơ Tình Miền Nam đăng lên Gió O nhà thơ Trần Huiền Ân
liên lạc với Gió O, cho biết bài học thuộc lòng này là tác phẩm của ông
in trên Tân Việt Văn (1964).
Nhân đây tôi xin chép lại bài thơ theo trí nhớ, tựa đề bài thơ này là Quê Em:
Khi khôn lớn rộng đường ra hải ngoại
Nếu có người muốn biết rõ quê em
Mở bản đồ em sẽ chỉ người xem
Đây nước Việt bốn ngàn năm yêu quí
Quê em có núi rừng nung chính khí
Ngọn Hoàng Liên chót vót đội trời xanh
Dãy Trường Sơn như một bức liên thành
Chân trải rộng miền cao nguyên màu mỡ
Quê em có hai cánh đồng vạn thuở
Vẫn còn xanh thắm thiết Bắc Nam Trung
Dâng lúa ngô nuôi nòi giống oai hùng
Mỗi trang sử ghi một lần thắng lợi
Quê em có ba dòng sông chờ đợi
Hòa niềm vui trong lòng mẹ biển bao la
Bùn Cửu Long Giang, đất đỏ Nhị Hà
Pha trộn nước dòng sông Hương trong suốt
Quê em đấy dáng hình tuy gầy guộc
Nhưng biết bao nhiêu cảnh trí hữu tình
Để ai qua cũng cảm thấy lòng mình
Quyến luyến mãi và hẹn ngày trở lại. (Tác giả Trần Huiền Ân)
[2]
Nguyễn Ngọc Bích, Preface. A Thousand Years of Vietnamese Poetry.
Trans. Nguyen Ngoc Bich, Burton Raffel and W. S. Merwin, New York:
Alfred A. Knopf, 1975, p. xv.
[3] CHRISTOPHER MORLEY (1890 – 1957). Inward Ho! 2, 1923.
[4]
Bloom, Harold. “Poetic Influence.” Literature – An Introduction to
Fiction, Poetry, Drama, and Writing. Eds. Kenedy, X. J. and Dana Gioia.
p. 1519.
[5] “Poetry is a speaking picture, painting is silent poetry.” Simonides of Ceos nhà thơ Hy Lạp (c. 556 BC – 468 BC)
[6] Saunders, Angela. Thơ Kể. Trans. Phạm Kiều Tùng, Garden Grove:Tân Hình Thức, 2009, p. xx-xxiii.
[7] Breggin, Peter. The Heart of Being Helpful: Empathy and the Creation of a Healing Presence. New York: Springer. 1997.
[8] Hedges, Chris. War Is a Force That Give Us Meaning New York, Anchor Book, p. 158.
[9] Cao Thoại Châu. Một Thoáng Thơ Tình Thời Chiến. 24 June 2010, http://www.vanchuongviet.org/
[10] Trích Thư Tình Miền Nam, Thư Ấn Quán 2008, tr. 485.
[11] http://www.gio-o.com/ThoTinhNam1975.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét