Thứ Sáu, 19 tháng 2, 2016

Chuyện gia đình và tình dục ở loài khỉ


Anh Đỗ Xuân Quang chs Phan Châu Trinh xin giới thiệu đến Quí Thầy Cô, anh chị bài Chuyện gia đình và tình dục ở loài khỉ của tác giả Đoàn Dự 

THƯA QUÝ BẠN, theo âm lịch, năm nay là năm Bính Thân nên tôi xin trình bầy với quý bạn mọi sự hiểu biết của tôi về đời sống gia đình và tình dục của loài khỉ. Hy vọng bài này sẽ hầu quý bạn những sự khám phá đầy thú vị về loài vật tinh khôn có nhiều điểm rất gần gũi với con người đó. Xin mời quý bạn thưởng thức…
Khỉ thuộc ngành động vật hữu nhũ (động vật có vú), bộ Linh trưởng. “Linh” có nghĩa là khôn ngoan, nhanh nhẹn; “trưởng” có nghĩa là đứng đầu, hạng nhất (giống như chữ trưởng trong tiếng con trưởng, gia trưởng). Như vậy, “Linh trưởng” có nghĩa là loài vật khôn ngoan, nhanh nhẹn đứng đầu trong các con vật.
Theo tiếng Hán Việt, Linh trưởng tương ứng với chữ Primate (số nhiều là primates) trong tiếng Anh. Trước kia, Primates còn được gọi là bộ Khỉ, bắt nguồn từ gốc La-tinh primas (số nhiều: primus) có nghĩa là hạng nhất, cao cấp nhất. Tuy nhiên, trong tiếng Hán, chữ “trưởng” lại viết cùng chữ với chữ “trường” (nghĩa là dài, ví dụ trường giang, trường túc) vì vậy đa số các sách tiếng Việt đều viết là bộ “Linh trường” thì không đúng lắm.
Linh trưởng hay bộ Khỉ được các nhà khoa học nghiên cứu và cho là hình thành cách đây khoảng 65 triệu năm. Đến nay cũng không ai biết bộ Khỉ có bao nhiêu loài, bởi vì có những loài khỉ cổ xưa đã biến mất nhưng cũng có những loài “khỉ mới”, vừa được tạo hóa tạo ra. Ví dụ ở bên Brasil, mới đây các nhà khoa học tìm thấy có tới 5 loài “khỉ mới” vừa phát sinh, còn ở Việt Nam thì có 2 loài vừa phát sinh, còn đang trong vòng nghiên cứu, chưa được đặt tên.
Người ta cũng không thể biết kích thước “trung bình” của các loài khỉ là bao nhiêu. Bởi vì, loài khỉ Berthe “nhỏ nhất thế giới” ở Philippines chỉ nặng có 30 gam và to bằng đầu ngón tay út, có thể nằm gọn trong một chiếc muỗng, loài khỉ Tarsier cũng ở Philippines nặng 80 gam, to bằng 3 đốt ngón tay, nhưng cũng có loài Mountain Gorilla (Khỉ đột núi) ở Phi châu mà con đực nặng tới 200 kg, nghĩa là gấp gần 3 lần người đàn ông nặng 70 kg!
Còn về kích thước, trí khôn cũng như hình dáng nói chung, người ta chia các loài khỉ ra làm hai nhóm:
– Nhóm “chưa có dạng người” (Strepsirrhini): kích thước nhỏ hơn người rất nhiều, trí thông minh kém xa người, hình dáng chưa giống với người. Ví dụ: loài khỉ Berthe, khỉ Tarsier ở Philippines, khỉ lông vàng Rhesus macacus ở các nước Đông Nam Á, khỉ đuôi dài thường thấy nhiều ở Việt Nam…
– Nhóm “có dạng gần giống với người” (Haplorhini): kich thước gần bằng người hoặc hơn, trí thông minh cao nhất trong các loài khỉ, hình dáng từ mặt mũi cho tới dáng đi, dáng đứng bằng hai chân khá giống với người. Tiêu biểu là 4 loài: khỉ Bonono (chưa có tên Việt), Khỉ đột (Gorilla), Tinh tinh (Pan), và Đười ươi (Ourang-outang, tiếng Anh: Ourangutan, tiếng La tinh tức tên khoa học: Pongo).
Trong nhóm “chưa có dạng người”, chúng ta để ý tới loài khỉ “dễ thương” Rhesus macacus (có ở các nước Đông nam Á, kể cả Việt Nam). Tại sao chúng lại “dễ thương”? Tại vì loài khỉ này hiền lành, xinh xắn, và sống rất sạch sẽ. Đặc biệt, các “bà mẹ Rhesus” rất âu yếm các con mới sinh. Hễ thấy một bà mẹ khác trong đàn đang bế con còn nhỏ, các bà sát lại gần, xòe tay ra xin “cho mình bế bé một tí” rồi nựng nịu, âu yếm không khác gì con do chính mình sinh ra. Một điều quan trọng khác nữa là máu của loài khỉ Rhesus macacus rất giống với máu của người, do đó nhà sinh lý học Karl Landsteiner người Áo (1868-1943, giải Nobel y học 1930), năm 1901 sau khi đã tìm ra 4 nhóm máu chính O, A, B, AB và các nguyên tắc trong việc truyền máu, nhưng đôi khi vẫn có người chết, ông tiếp tục nghiên cứu với khỉ Rhesus macacus và tìm ra hai yếu tố phụ gọi là rhesus+và rhesus-, từ đấy khi truyền máu không còn xảy ra tai nạn nữa.
Về nhóm “gần giống với người”, chúng ta sẽ nói nhiều tới khỉ Bonono và khỉ đột, vì hai loài này hiền và “tiến bộ” tức có nhiều điểm giống với người hơn là đười ươi và tinh tinh. Ở sở thú Sài Gòn, khỉ Bonono được để tên Việt Nam là “Khỉ dã nhân”, nhưng đối với người Tây phương, Dã nhân (Gigantopithecus) còn là huyền thoại, chưa được nghiên cứu kỹ, chúng ta sẽ nói sau.
I. Đời sống “gia đình”
Các khỉ loại nhỏ “chưa có dạng người” như khỉ đuôi dài (Macaca fascicularis), khỉ mặt chó (Baboon), khỉ lông vàng (Rhesus macacus)… thường sống thành đàn, có khi tới vài chục con hoặc hơn; còn khỉ loại lớn “gần giống với người” như khỉ đột, khỉ Bonono, thường sống thành “gia đình” cỡ vài ba hoặc năm sáu con. Tại sao các “khỉ loại lớn” không sống thành đàn đông đúc? Tại vì chúng… lớn, hằng ngày cần nhiều thức ăn trong khi chúng không sản xuất ra được mà chỉ lấy trong tự nhiên, nếu sống thành đàn chúng sẽ khó kiếm đủ được. Nhưng dù lớn hay nhỏ chúng cũng có các tập tính khá giống nhau, chúng ta se lấy hai loại Bonono và khỉ đột làm tiêu biểu.
Dù sống thành đàn hay gia đình cũng không bao giờ “loạn luân”
Chẳng phải chúng đạo đức mà tại vì, như chúng ta đã biết, trong các loài, nếu có sự giao phối đồng huyết, tức sự thụ tinh cùng dòng máu (như khỉ cha, khỉ mẹ với chính con của chúng, khỉ anh em, cô chú cùng huyết thống với nhau), con cháu sinh ra sẽ suy yếu, phát sinh bệnh tật, dòng giống sẽ thoái hóa rồi bị tiêu diệt. Bởi vậy tạo hóa đặt để ra, khi còn nhỏ thì khỉ con sống trong đàn hay trong gia đình với bố mẹ, nhưng khi trưởng thành, đến tuổi động dục nó sẽ tự động bỏ đàn đi kiếm đàn khác để gia nhập và sẽ bắt đôi với chàng hay nàng trong đàn khác đó.
Chúng ta thấy trong một đàn khỉ, con đực “chúa trùm” có thể giao phối với nhiều khỉ cái nên tưởng rằng trong số các khỉ cái đó có “con gái” hay “cháu gái” của nó. Không, khi trưởng thành, con hay cháu nó đã rời khỏi đàn rồi nên không thể có sự giao phối đồng huyết. Chỉ trừ trường hợp đặc biệt như đàn khỉ sống trong các vườn thú chẳng hạn, khi trưởng thành không bỏ đàn đi đâu được nên mới có sự giao phối lung tung. Lúc ấy, khỉ con sinh ra do sự giao phối đồng huyết thường chết.
Báo Thanh Niên mới đây cho biết, chú khỉ đột có tên Snowflake (Hoa tuyết) từng nổi tiếng thế giới là cá thể bạch tạng duy nhất trong loài khỉ. Theo các nhà bảo tồn, Snowflake chào đời nơi hoang dã với chứng bạch tạng bẩm sinh (một rối loạn về gene khiến chú khỉ đột này thiếu sắc tố trên da và lông).
Dân chúng đã bắt được Snowflake ở vùng Guinea Xích Đạo năm 1966. Chú khỉ đột hiếm gặp sau đó đã sống suốt 40 năm tại vườn thú Barcelona (Tây Ban Nha) cho tới khi qua đời vì bệnh ung thư da vào năm 2003.
Trước khi Snowflake chết, người ta đã lấy máu của chú đem đông lạnh để bảo quản. Các nhà khoa học đã tiến hành phân tích mẫu máu đông lạnh này vào năm 2012 và xác định rằng, chứng bạch tạng của Snowflake do gene SLC45A2 gây ra vì hậu quả của đột biến trực tiếp từ cha mẹ của chú. Khi phân tích chi tiết, họ phát hiện, cha mẹ của Snowflake có quan hệ huyết thống gần gũi tới 12% DNA giống hệt nhau, điều này cho biết khỉ cha và khỉ mẹ của Snowflake có thể là chú ruột đã giao phối với cháu ruột.
Khám phá trên cho thấy kết quả của việc giao phối loạn luân ở loài khỉ đột sinh trưởng tại vùng đất thấp của phương Tây. Nhà nghiên cứu Marques Bonet giải thích rằng, một số loài khỉ đột có dân số ít ỏi ở vùng đất thấp thường phải giao phối lẫn nhau dù là cùng huyết thống để bảo tồn nòi giống.
Biết o mèo
Trong quá trình theo dõi khỉ vàng Rhesus macacus ở Indonesia, các nhà khoa học nhận thấy rằng các con đực phải chải lông và bắt rận cho khỉ cái để được “vui vẻ”.
Michael Gumert, một chuyên gia của Đại học kỹ thuật Nanyang (Singapore) cùng các nhà khoa học, nghiên cứu một nhóm gồm 50 khỉ Rhesus macacus ở Kalimantan Tengah, Indonesia trong 20 tháng. Họ nhận thấy khỉ đực thường chải lông, bắt rận cho khỉ cái trước khi giao phối với nó.
Không phải mọi khỉ đực đều được ân ái sau khi chải lông cho khỉ cái, nhưng thống kê cho thấy hoạt động tình dục trong đàn khỉ tăng lên hơn 2 lần nhờ hoạt động này. Cụ thể, số lượng đôi khỉ giao phối trong một giờ (tính trung bình) là 1,5 lần. Nhưng sau khi khỉ cái được chải lông, số lượng trung bình đó tăng lên gấp 3,5 lần.
Nghiên cứu cũng cho thấy, số phút mà một con khỉ đực dành cho việc chải lông phụ thuộc vào số lượng khỉ cái có mặt chung quanh nó. Con số khỉ cái càng đông thì số phút chải lông của khỉ đực càng ít. Nói một cách dễ hiểu, ở người, một anh chàng có nhiều “bồ” thì anh ta sẽ ít chăm sóc các cô hơn là chỉ có một.
lấy thức ăn hoặc để “chàng” chịu khó chăm sóc con hơn. Nhưng đây là lần đầu tiên giới khoa học chứng kiến khỉ đực chăm sóc khỉ cái để lấy “tình”.
Nhưng điều khiến Michael Gumert để ý là nhiều khi khỉ cái cũng chải lông cho khỉ đực. Theo ông, có thể đó là một cách để khỉ cái làm giảm mức độ hưng phấn của khỉ đực. Trên thực tế, sau khi được khỉ cái chải lông, số phút làm tình của khỉ đực giảm hẳn.
II. Đời sống tình dục 
Đối với các vật nuôi như chó, mèo, gà, vịt, kể cả trâu bò, chúng ta thấy con vật cái chỉ chịu đực khi chúng ở thời kỳ động dục. Trong trường hợp chúng chưa tới thời kỳ động dục mà con đực cứ muốn “làm” thì chúng né tránh để “chàng” không thể “tới bến”được. Riêng ở loài khỉ, chỉ trừ khi đang có thai hoặc đang phải nuôi con nhỏ khỉ cái mới tỏ ý không bằng lòng hoặc chống lại chồng, còn những lúc khác dù không muốn nó cũng chiều ý chồng. Đặc biệt, lúc động dục con cái thường có những cử chỉ mời gọi.
Ngoài ra, ở khỉ Bonono và khỉ đột, khi khỉ vợ quá ham muốn nó cũng biết kích thích cơ quan sinh dục của chồng để chồng hiểu ý nó, rồi nó nằm sấp trước mặt chồng một cách mời gọi để chồng làm tình với nó. Đến mức này thì khỉ chồng chiều ý vợ vì không thể từ chối.
Một trường hợp kỳ lạ là mới đây, các nhà khoa học trong khi đi nghiên cứu, vô tình bắt gặp ở trong rừng Brasil một con khỉ cái có thai rất lớn bất ngờ bị té từ một ngọn cây cao xuống một mỏm đá, bị thương nặng sắp chết. Con khỉ đực chồng nó cứ quanh quẩn ở đấy ôm ấp vợ một cách cực kỳ thương xót đồng thời xua đuổi những con khỉ khác không cho tò mò đến xem. Điều lạ lùng không ai có thể tưởng tượng được là cuối cùng, con khỉ đực chồng nó giao cấu với vợ trước khi vợ chết. Các nhà khoa học giải thích rằng, nó giao phối như vậy không phải do sự thích thú mà là để bày tỏ lòng yêu thương cũng như sự đau xót cùng cực của nó đối với vợ.
Khỉ Bonono thường được nhắc tới như “những con khỉ có quan hệ tình dục rất nhiệt tình”. Ở loài khỉ này, các con cái sử dụng tình dục cho nhiều mục đích: để giảm căng thẳng, để hóa giải xung đột giữa nó và con đực, thậm chí còn khoe khoang chuyện “làm tình” trước mặt bạn bè.
Trong các cuộc quan sát mới đây, một nhóm các nhà nghiên cứu thuộc trường Đại học St Andrews (Anh) thấy rằng, khỉ cái sử dụng tiếng kêu để “quảng cáo” những cuộc giao hoan của chúng, nhất là khi chúng giao hoan đồng tính với một con khỉ cái khác.
Ân ái đồng tính giữa khỉ cái với khỉ cái là hành vi tương đối phổ biến trong loài khỉ Bonono bất cứ khi nào chúng muốn. Bởi vậy chúng duy trì mối quan hệ giữa các khỉ cái với nhau rất vững chắc và thường liên quan tới tình dục. Bà Zanna Clay, vị tiến sĩ đứng đầu trong cuộc nghiên cứu này giải thích: “Khỉ cái “to mồm” khi giao hoan với bạn tình để các khỉ cái khác thấy giá trị của nó trong chuyện tình dục. Nhất là khi ân ái với một con khỉ cái giữ vị trí cao hơn trong bầy đàn thì nó lại càng làm ầm ĩ hơn có vẻ rất hãnh diện”.
Tuy nhiên, khi khỉ cái đến thời kỳ động dục thì nó lại càng la hét nhiều hơn lúc ân ái với khỉ đực chồng nó. Tiến sĩ Clay giải thích: “Điều đó cho thấy những tiếng la hét ấy có tính cách bản năng và thích thú hơn là sự tự quảng cáo”.
Các kiểu làm tình ở loài khỉ
Là động vật cao cấp nhất trong các con vật và có những tính chất gần giống với con người nhất, khỉ cũng có những tư thế làm tình vừa giống đa số các loài vật khác đồng thời vừa giống với người, gồm các kiểu chính:
– Kiểu đứng: Con đực ôm trên lưng con cái từ phía đằng sau. Con cái có thể đứng hoặc nằm sát xuống đất theo ý nó muốn và vừa tầm với con đực.
– Kiểu nằm: Con cái nằm ngửa, con đực nằm hoặc ngồi trên phía phần sau của con cái, mặt đối mặt.
– Kiểu ngồi: Hai con cùng ngồi đối diện với nhau, ôm nhau. Nếu con cái lớn hơn con đực khá nhiều thì nó thường chống hai tay xuống đất cho vững, con đực ngồi trên hai đùi nó và ôm lưng nó. Ngược lại, nếu con đực bằng hoặc lớn hơn con cái thì còn đực ngồi chống hai tay xuống đất, con cái ngồi trên hai đùi nó. Như vậy chính con cái chủ động trong việc giao phối với con đực.
Nếu người giao phối với khỉ thì có thể sinh con hay không?
Ngày xưa, khi chưa có định nghĩa về loài, nhất là chưa có sự khám phá về nhiễm sắc thể (chromosomes) cũng như về gene trên các nhiễm sác thể, các nhà khoa học Nga tự đặt câu hỏi, khỉ là loài rất gần với người, nghĩa là có nhiều tính chất giống người, vậy nếu người giao phối với khỉ thì có thể sinh con hay không?
Để trả lời câu hỏi đó, họ nuôi một khỉ cái Bonono là loài khỉ hiền lành nhất, giống người nhất, có tính dục mạnh mẽ nhất, rồi chờ đến khi cô khỉ cái tới thời kỳ động dục, họ cho một người đàn ông tráng kiện giao phối với cô khỉ này. Kết quả là dù giao phối bao nhiêu lần chăng nữa cô khỉ vẫn không có thai. Họ cho rằng có lẽ do nuôi trong điều kiện không giống với điệu kiện tự nhiên nên cô khỉ không thể thụ thai. Họ làm thí nghiệm khác rất công phu là sang bên Phi châu, thuê mấy thanh niên Phi châu khỏe mạnh, sung sức, không mặc quần áo, gia nhập đàn khỉ Bonono kể cả đàn khỉ đột rồi dùng thức ăn “làm quen” với các cô khỉ cái, sống với các cô này như vợ chồng và giao phối với các cô đó trong điều kiện tự nhiên. Kết quả là không cô nào có thai cả. Các nhà khoa học đi đến kết luận: khi người giao phối với khỉ thì không thể thụ thai.
Thật ra, sau khi đã có định nghĩa về loài của nhà sinh vật học người Đức Ernst Mayr (1904-2005), nhất là sau khi đã có những hiểu biết về nhiễm sắc thể và gene, không cần làm những thí nghiệm như trên người ta cũng biết hai sinh vật khác loài như người và khỉ khi giao phối với nhau thì không thể thụ tinh để sinh ra con được.
Theo định nghĩa của Ernst Mayr: “Loài là một nhóm các ca thể sinh vật có những đặc điểm tương đối giống nhau và có khả năng giao phối với nhau sinh sản ra thế hệ tương lai”. Hay nói khác đi, hai loài khác nhau thì không thể giao phối với nhau, hoặc có giao phối nhưng không thể sinh sản, hoặc có sinh sản nhưng con của chúng không sinh sản được. Tại sao như thế? Bởi vì mỗi loài có bộ nhiễm sắc thể khác nhau, trên đó có các gene di truyền. Ở người có 46 NST tức 23 đôi. Ở khỉ có 42 NST tức 21 đôi. Khi giao tử của người gặp giao tử của khỉ trong sự giao phối, số lượng các NST không phù hợp nên chúng không thể kết hợp với nhau để tạo ra bào thai được.
Trong thế giới động vật chỉ có trường hợp con lừa và con ngựa là hai loài khác nhau, chúng có thể giao phối với nhau sinh ra con gọi là con la, nhưng con la không sinh sản được, như vậy định nghĩa của Ernst Mayr vẫn đúng.
Huyền thoại về khỉ dã nhân hay “người rừng” ở Trung Quốc
Nhiều nhân chứng kể rằng các “nữ dã nhân” đã đột nhập vào một số làng trong rừng ở Trung Quốc để tìm kiếm đàn ông.
Hơn 400 người Trung Quốc khẳng định họ đã từng nhìn thấy dã nhân – một loại sinh vật giống người hoặc giống đười ươi song có chiều cao tới 2 m – trong rừng Thần Nông Gia thuộc tỉnh Hồ Bắc. Chẳng hạn, vài người kể rằng các dã nhân nữ đột nhập vào một số làng trong rừng để ngủ với đàn ông.
Năm 1983, tờ Nhật báo Chiết Giang đưa tin, một nông dân đang ngủ trong chiếc lán trong rừng thì một sinh vật to lớn có hình dạng giống phụ nữ xông vào lán định thực hiện hành vi giao cấu với ông. Sinh vật đó có cặp mắt màu xanh dương thẫm. “Người nông dân không kêu lên được vì quá sợ hãi. Ông cũng không thể chống cự lại được đối thủ. Nữ dã nhân kia giao cấu với ông vài phút rồi bỏ đi”.
Lời đồn đại về sự tồn tại của dã nhân khiến hơn 100 nhà khoa học thành lập Hiệp hội Tìm kiếm Dã nhân tỉnh Hồ Bắc vào tháng 11/2009. Wang Shancai, một phó chủ tịch của hiệp hội, cho biết, các nhà khoa học đang quyên tiền để thực hiện một cuộc tìm kiếm quy mô trong rừng Thần Nông Gia. Theo ông Wang, nếu dã nhân thực sự tồn tại, chúng sẽ giúp giới khoa học hiểu rõ hơn về quá trình động vật linh trưởng tiến hóa thành người.
Viện Khoa học Trung Quốc đã từng cử ba đoàn chuyên viên vào rừng Thần Nông Gia để tìm dã nhân trong thập niên 70 và 80. Họ tìm thấy nhiều thứ được cho là của dã nhân như lông, phân, dấu chân và chỗ ở, song không đưa ra kết luận chính thức về sự tồn tại của chúng.
Ông Wang khẳng định: “Ba đoàn chuyên gia trước đây đã mất thời gian và công sức do tìm kiếm trên phạm vi quá rộng. Ngoài ra thời đó họ cũng không có những thiết bị tiên tiến. Cuộc tìm kiếm sắp tới của chúng tôi sẽ chỉ tập trung trong phạm vi hẹp như các hang mà dã nhân có thể sống”.
Ông nói tiếp: “Chúng tôi sẽ chia thành 5 đoàn để tập trung tìm kiếm tại 5 khu vực quan trọng mà dã nhân có thể xuất hiện. Các đoàn sẽ sử dụng những biện pháp hiện đại nhất, bao gồm cả các bẫy có camera. Với sự hỗ trợ của các thiết bị hiện đại, tôi tin khả năng tìm thấy dã nhân là 80% trở lên”.
Nhiều nhà khoa học tại Trung Quốc và trên thế giới cho rằng dã nhân mà hơn 400 người nói họ đã từng trông thấy có thể chỉ là một loài đười ươi lạ mà con người chưa biết.
Nhà báo Mỹ Nicholas Redfern, một trong những chuyên gia hàng đầu thế giới về sinh vật lạ cho rằng, nỗ lực của giới khoa học Trung Quốc không phải viển vông, bởi vì có nhiều hóa thạch cho thấy dã nhân có thể tồn tại.
Redfern nói với Fox News: “Rất nhiều câu chuyện về quái vật khổng lồ đã được người dân bịa ra dựa trên những câu chuyện cổ tích hoặc truyền thuyết. Nhưng thật ra người ta đã tìm thấy nhiều hóa thạch cho thấy những sinh vật lớn giống người đã từng sống tại Trung Quốc hơn 300 ngàn năm trước”.
Các chuyên gia về linh trưởng đã từng tìm thấy xương hàm, răng, và nhiều mảnh xương khác của một loại động vật có hình dạng giống người trong rừng Thần Nông Gia. Sinh vật này có chiều cao xấp xỉ 2,7 m. Các nhà khoa học gọi nó là Gigantopithecus (Người rừng khổng lồ).
Redfern đã tham gia nhiều cuộc tìm kiếm người rừng khổng lồ, song các nỗ lực đó đều thất bại vì thiếu tiền. Ông nói: “Chẳng có gì tuyệt vời hơn nếu các nhà khoa học có đủ tiền để tìm kiếm sinh vật ẩn hình trong vòng một năm. Nếu bạn chỉ vào rừng trong vòng một tuần và tìm kiếm một cách ngẫu nhiên thì cơ hội tìm thấy người khổng lồ sẽ rất mong manh”.
Tuy nhiên, nếu Hiệp hội Tìm kiếm Dã nhân tỉnh Hồ Bắc quyên đủ tiền để thực hiện cuộc tìm kiếm lâu dài thì một câu hỏi được đặt ra: “Người khổng lồ có còn sống trong các khu rừng châu Á hay không?”. Redfern phát biểu: “Các bằng chứng khoa học cho thấy Gigantopithecus đã tuyệt chủng từ lâu nhưng các nhà khoa học cũng thường xuyên mắc sai lầm. Kết luận của các nhà khoa học không phải bao giờ cũng đúng”.
Đoàn Dự

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét