Thầy Trần Đại Tăng (Nhà thơ Trần Hoan Trinh) sinh năm 1937 Giám học trường TH Phan Châu Trinh Đà Nẵng, giáo viên day môn Toán trường THPT Phan Châu Trinh đã từ trần lúc 15 giờ ngày 6/8/2015 tại nhà riêng 133/18 đường Cao Thắng Đà Nẵng
Lễ nhập quan lúc 21:00 ngày 6/8
Lễ Di quan lúc 6:00 ngày 13/8/2015
Kính cầu nguyện hương linh thầy TRẦN ĐẠI TĂNG vãng sanh cực lạc
Để tưởng nhớ đến Thầy, chúng tôi xin giới thiệu bài viết của Hà Khánh Quân đăng trên www.luanhoan.net:
Trần Hoan Trinh
Cùng Những Bài Thơ Tình Trong Lớp Học
Thú vị với cái tên đề mục “Tình Thơ Trong Cặp Thư Sinh”, bắt gặp trong tập Tình Xanh Mấy Nhánh của nhà thơ Lê Hân, tôi tìm đọc thêm những bài thơ tình viết cho học trò, viết trong tuổi học trò. Gõ vào ô search của yahoo, của Google, tôi đến được rất nhiều trang thơ. Tôi cũng không quên mở những cánh cửa của những sân chơi, mang tên những ngôi trường danh tiếng một thời.
Thơ, văn, hình ảnh từ những trang kỷ niệm ấy, quả thật đã giúp tôi hồi xuân. Và cụ thể hơn, tôi đã biết và tìm đến cùng thi phẩm Bỏ Trường Mà Đi.
Trên thị trường chữ nghĩa, bạn đọc tại Việt Nam, hình như còn mặn nồng với thi ca. Tại hải ngoại, nghe đâu chuyện này rất bi đát. Có lẽ vì vậy, những tập thơ được in trong nước, không chịu tìm đường xuất cảnh. Thế nhưng Bỏ Trường Mà Đi, từ ngàn dặm xa, đã đến được với tôi trong vóc dáng lành lặn, hoàn hão.
Cầm hai-trăm-năm-mươi trang thơ trên tay, chưa đọc, tôi đã thấy sung sướng. Lật qua lật lại, màu tím nhạt cùng hai bóng nón lá, áo dài, như kéo gần tôi lại với tháng ngày đã qua. Dù không vội vã khỏa lấp đi nỗi bồi hồi, tôi cũng lật từng trang.
Bỏ Trường Mà đi
thơ Trần Hoan Trinh
Trò Xưa thực hiện
Ba dòng trên mỗi dòng bốn chữ cũng bắt chợt thành thơ. Bạn không tin, mời đọc lại. Thơ hay không thơ nằm ngay trong lòng bạn. Với tôi, quả rất nồng nàn. Có chăng cảm nhận khởi từ một quen biết mơ hồ ?
Tác giả Trần Hoan Trinh, một tên gọi không lạ, dù tôi chưa được cái may mắn, tay bắt mặt mừng cùng anh một lần. Cần khai rõ và tin ngay, tác giả không là một học trò, mà là người chuyên đứng trên bục giảng. Bởi tôn trọng nội qui, tự đề ra khi viết bài, tôi đã vô phép gọi anh, thay vì gọi thầy hay ông cho phải phép. Thành thật xin lỗi.
Người thầy làm thơ này với tên căn cước: Trần Đại Tăng, một cái tên nghe rất giàu sức nặng. Nhưng vóc dáng xem ra cũng trung bình. Người tầm thước, không mập, không gầy, không giống Từ Hải, nhưng rất Kim Trọng. Anh được nảy mần từ đất kinh thành vua nhà Nguyễn, vào ngày 03 tháng 8 năm 1937, nhưng vào bén rễ, sinh sống trên lòng đất, quân Pháp bắn tiếng súng đích thực đầu tiên vào Việt Nam. Đây là bản lý lịch, anh quen tay, tự khai khá rõ:
“tôi lớn lên từ thằng bé con
cả ngày đi hoang trên những cánh đồng
hái trái, thả diều, bắn chim, bắt cá
đêm ngủ thấy mình cứ hóa tiên ông
tôi đổi thay làm đứa học trò
sách vở sớm chiều nửa học nửa mơ
lang thang phố phường tìm trăng đuổi bướm
để một đêm buồn bỗng ngồi làm thơ
rồi một ngày tôi trở thành thầy
đứng trước bảng đen, tóc phấn bay đầy
ngôi trường bình yên bên con sông nhỏ
giữa tiếng giảng bài nhiều khi ngất ngây...”
(Một đời thầy, một đời thơ, trang 44)
Thật tuyệt vời, thật đồng dạng với nhiều “nam nhi chi chí” một thời. Bắn chim. thả diều, bắt cá...tuổi ấu thơ của những thằng bé con Việt Nam sao mà đẹp thế. Và cái tuổi nhỏ của nhà thơ sao na ná... hư, giống tôi. Vừa học lại vừa mơ chả trách gì lớn lên phải làm thơ...tán gái. Có chút khác chăng là ở chỗ, tôi cũng có một thời gian ngắn, đứng trên bục giảng, nhưng chỉ tìm thấy ngất ngư chớ không được ngất ngây. Có lẽ vì vậy, tôi bỏ nghề gõ đầu trẻ khá sớm.Nghiệm ra rằng, thiên chức cao quí này, không phải ai cũng hoàn thành và hoàn thành tốt một cách hoàn hão. Trần Đại Tăng, ông thầy dạy toán trường Phan Châu Trinh, lừng danh một thời ở Đà Nẵng, trong một phút say thơ, đã thố lộ:
“cái bảng đen trước mặt
viên phấn nằm trên bàn
ngoài sân em xõa tóc
trên trời mây lang thang
này các em các em
hàm số ấy đồng biến
con chim gì trên cây
tiếng ca, trời xao xuyến
đoạn thẳng này thẳng góc
còn đoạn kia đoạn xiên
chiều qua người yêu khóc
mình nằm buồn cả đêm
vòng tròn, ờ, vòng tròn
- tròn như đôi mắt em
tròn như đôi mắt em
tròn như tình yêu em
những đường cong đan nhau
những đường cong khép kín
- kín như vòng tay anh
ôm trọn vòng lưng em ...”
(Dạy Toán, trang 32)
À ra thế. Đại số, hình học đâu có gì khô khan, đâu có gì mực thước. Vừa giảng bài vừa nhớ người yêu. Biết đâu người yêu ngồi ngay trước mặt. Biết đâu người yêu “ ... đến lớp không thuộc bài/ bị điểm không trong sổ/ nước mắt cứ chảy dài”. Biết đâu người yêu “... sách vở lem luốt mực/ bài làm được gì đâu/ thường lặng thinh cắn bút”; biết đâu người yêu “... áo quần luôn xốc xếch/ thầy thương em trẻ con/ hay vò đầu vuốt tóc...”
(Ngày Xưa Ngày Nay, 58).
Từ tình thầy trò, bước qua tình yêu nam nữ, đâu có gì cách trở chia ngăn. Ranh giới đạo đức đông phương được tháo gỡ dễ dàng, nếu có chân tình. Đức tính này, có sẵn trong trái tim con người dạy toán biết làm thơ, Trần Đại Tăng. Bởi biết làm thơ, nên anh không thể không lãng mạn, vẩn vơ trước hình ảnh:
“... em cắn bút bâng quơ
tóc nghiêng bờ vai nhỏ
tiếng chim như hững hờ
mơn man làn môi đỏ
trời bỗng dưng se lạnh
áo mỏng chừng phong phanh
tiếng chim theo chiếc lá
vừa nuối tiếc xa cành...”
(Tiếng Chim Ngoài Cửa Lớp)
“cô học trò nho nhỏ
sáng đi học một mình
chân tung tăng đường cỏ
lòng rộn ràng tiếng chim
cô học trò nho nhỏ
có má lúm đồng tiền
mơ màng bên cửa lớp
xinh như một nàng tiên
cô học trò nho nhỏ
đôi mắt đẹp buồn buồn
môi như hoa hồng đỏ
trông sao mà dễ thương
cô học trò nho nhỏ
mái tóc xõa dài dài
thả bay theo trời gió
cho sân trường liêu trai
cô học trò nho nhỏ
chiều qua phố một mình
thương ai mà giận dỗi
cứ làm hoài mặt nghiêm...”
(Cô Học Trò Nhỏ)
Cũng bởi biết làm thơ, nên tiếp tục không thể không trưng dụng cái lợi khí tay trái của mình, anh nhờ vần điệu tỏ tình:
“ cô học trò nhỏ ơi
thơ tôi không đủ lời
em là vầng trăng tỏ
giữa mênh mông cuộc đời”
(Cô Học Trò Nhỏ)
Lời tỏ tình kín đáo, nhưng đầy đủ, khôn khéo quá. Chính nhờ cái bóng gió của thơ, gói nửa kín, nửa hở lòng chân thật, nên cuối cùng đã góp thêm một ngày tuyệt vời vào kho tình nhân loại:
“...em nhớ nhiều
thầy có biết không
một hôm thấy thầy lang thang trên sân
em lên bàn thầy em tìm trong cặp
đọc bài thơ tình thầy mới viết xong
bài thơ tình đưa em vào đời
biết giận biết buồn từ đó thầy ơi
hết còn là cô học trò tinh nghịch
em lớn lên thành thiếu nữ mất rồi...”
(Huyền Thoại, 29)
Cảm ơn những cô học trò đa tình, rộng lòng. Bằng những ánh mắt, những nụ cười hay đến cả những cái háy, cái nguýt, cái trề môi... cũng là những gợi mở cho các chàng si tình. Những cuộc tình học trò, kể cả những dấu yêu giữa thầy và trò, xưa nay vẫn là những cuộc tình đẹp. Nhà thơ Trần Hoan Trinh, có lẽ đã thi vị hóa những gì ông sở hữu, để gởi đến chúng ta bài thơ Chuyện Tình Học Trò:
“ năm học ấy em bước chân vào lớp
chào thầy xong đi vội vã đến bàn
có người thấy cả hồn mình choáng ngợp
như bất ngờ chìm đắm giữa hào quang
em e thẹn ngỡ ngàng nhìn xuống lớp
mắt to đen và đôi má ửng hồng
bàn tay ngọc vô tình đưa vuốt tóc
gió bềnh bồng trên hai áng mi cong
em nhẹ nhàng mở cặp vở học sinh
dáng thơ ngây và hồn nhiên đến lạ
tà áo trắng khép đôi chân bé nhỏ
vòng lưng thon mềm mại đẹp hiền hòa
buổi học chiều tiếng thầy giảng thiết tha
lơ mơ mộng có học hành chi được
cứ mải mê nhìn em ngồi phía trước
tóc dài đen xõa kín cả bờ vai
thầy gọi em lên bảng sửa bài
bỗng cuống quít như tên mình thầy gọi
theo từng chữ từng lời em nói
phấn tay em mà tay ai lại run run
ai quay lui có bắt gặp mắt ai không
đang ngây dại ngắm nhìn em say đắm
em mỉm cười rạng ngời ánh sáng
đẹp vô cùng như một đóa phù dung
rồi si mê đến hết cả mùa đông
cả mùa xuân và mùa hè năm ấy
lòng ấp ủ một tình yêu bỏng cháy
giữa trần gian như có một thiên đường
mùa thu sau em không trở lại trường
cả mùa thu sau mùa thu sau nữa
để một người cứ mỏi mòn chờ đợi
cây phượng dài bên cổng cũng bâng khuâng
em có bao giờ nhớ lớp xưa không ?
nhớ bạn nhớ thầy nhớ bàn nhớ ghế
nhớ sớm mưa giăng, nhớ chiều nắng xế
nhớ sân trường áo lụa trắng bay bay
có bao giờ em nhớ tay trong tay
chạy nhảy tung tăng, nói cười rối rít
nhớ những bài thơ tình thắm thiết
trên hành lang đứng viết tặng nhau
và thế đó một mối tình đầu
đành câm lặng theo thời gian khép kín
nhưng xa cách dẫu đầu sông cuối biển
tận đáy lòng họ vẫn nhớ nhau
mối tình học trò nào có gì đâu
nhưng bất tử và muôn năm vẫn mới
gặp một lần nhưng một đời chờ đợi
và vấn vương cho đến phút tàn hơi
mối tình học trò đẹp như ánh mặt trời
(trang 16)
Cô học trò trong bài thơ là ai ?, tôi không còn nhớ. Nhưng cái cậu chợt giật mình tưởng như bị thầy gọi tên, và run vì những bụi phấn tay người, quả đúng là... tôi. Cũng đúng là bạn nữa, những cậu choai choai một thời trung học. Nhà thơ Trần Hoan Trinh chắc hẳn đã từng bước qua giai đoạn này, nên giải bày y như thật. Làm sao không thật được chứ, khi những rung động, những phút bất thần ‘yêu em là một tình cờ’ bao giờ cũng giống nhau.
“...bằng bước nai con, hồn bướm rừng
gặp mình tôi bỗng thấy mùa xuân
mình qua tôi cúi đầu không nói
để nhớ len vào buồn mênh mông”
(Thỏ Thẻ)
Một người giàu thơ như Trần Hoan Trinh, đương nhiên phải dành cho người mình yêu, những cánh hoa tình thắm tươi nhất. Thật tình, nếu không có bài viết của Trò Xưa Phan Thu Hà, (một nhan sắc của Đà Nẵng ngày nào), đóng góp ở những trang cuối, tôi cũng không biết bài Phương Thơ đã có mặt từ lâu, và được dành tặng riêng em gái một người bạn cũ của tôi, anh Lê Thái Giá. Bóng hồng trong thơ cũng chính là nàng thơ, nàng tiên, của Trần Hoan Trinh.Trò Xưa Phan Thu Hà kể chuyện phát hiện ra nhân tình của ông thầy rất dí dỏm, gọn nhẹ:
“... Mùa thu hôm nay mây trắng bay mù
trong suối mắt mùa thu rất tím
xin để tôi về kết hương kỷ niệm
nhớ thương suông cho đến thuở bạc đầu
(Tạ Từ)
“... Từ ai đã cho nguồn cảm xúc diệu vợi khiến ông thầy toán của chúng ta ‘biến đổi được những định lý, định đề’ thành những vần thơ trên ?
Nhớ Đà Nẵng xưa, một ngày đầu thu, buổi mai trời chớm lạnh, lớp đệ nhị A gặp thầy và cô học trò hiền hiền của lớp trong hai chiếc áo laine mỏng, cùng kiểu và cùng một màu xanh lá cây nhạt, cho chúng tôi mường tượng đoán Phương Thơ của thầy từ đây
Phương !
duyên tình diễm ảo
nét đoan trang băng trinh nếp áo
chim yêu trên khoé mắt thơ ngây
Phương
đợi em đã lâu
dáng bồ liễu thanh thanh
vẻ trầm tư kín đáo
nét hoa cười tha thiết đượm trên môi”
(Phương Thơ)
Đó chính là hình ảnh “nàng thơ” của thầy hay là Quý Phẩm của Một Thời Phan Châu Trinh....”
Quí phẩm ở đây là một Quý Phẩm có da thịt, có linh hồn. Còn những bài Thỏ Thẻ, Nao Nao, Tóc Thả Xuống Thành Thơ vv... hy vọng cũng khởi đi từ một dáng thanh xuân trong thơ Trần Hoan Trinh.
Trường trung học Phan Châu Trinh Đà Nẵng, một ngôi trường có tầm vóc của miền trung, nói riêng, của cả nước, nói chung. Dưới cái thanh thế lộng lẫy, uy nghi của một nhà cách mạng dân tộc, trường Phan Châu Trinh đã đào tạo được nhiều thế hệ thành đạt, hữu dụng cho tổ quốc. Tuyệt vời hơn nữa, từ vuông sân trường này những cuộc tình đẹp, nở hoa kết trái. Đã có rất nhiều cặp Thanh Thảo - Trương Duy Hy, Lê Qúy Phẩm - Trần Đại Tăng... Dĩ nhiên cũng không thiếu những ngậm ngùi, chua xót đủ để cho đời một số nhà thơ, nhà văn, họa sĩ, nhạc sĩ. Tôi rất thèm trích dẫn ra đây một số thơ văn tiêu biểu. Nhưng lại thôi, để xin lạc đề, cung kính cảm ơn thầy hiệu trưởng Nguyễn Đăng Ngọc, dưới bút hiệu Hoàng Nguyễn, đã tỏ lòng thương nhớ và ghi nhận sự trưởng thành của nhiều thế hệ học sinh Phan châu Trinh, qua bài tâm tình cùng Những Người Bạn Trẻ (chắc quý bạn đã được đọc từ tạp chí Thế Kỷ 21)
Tôi đã lướt qua một số thơ tình lứa đôi trong Bỏ Trường Mà Đi, nhưng những cụm hoa đó, theo tôi, không phải là giá trị duy nhất, đích thực của tập thơ Trần Hoan Trinh. Tình cảm một đời với phấn trắng, bảng đen mới chính là chân dung của thi phẩm này.
“ta đến khi tóc xanh
ta về khi tóc bạc
này, mai trên trường xưa
có một người thiếu mặt
ta đến hồn như trăng
ta về lòng như suối
cây sao già trên sân
ngươi thua ta một tuổi
bước đi trên hành lang
bước đi trong lớp học
cộng lại bằng con đường
nối vòng quanh trái đất
ta đã nói triệu lời
ta đã viết triệu câu
bóng hình ta khắp nơi
từng góc tường đóng bụi
ta lặng lẽ âm thầm
bốn mươi năm cửa lớp
còn gì cho ta đây
những ngày dài cỏ mục ?
tiễn ta về hôm nay
hàng cây xanh cúi mặt
gốc phượng hồng ngẩn ngơ
học trò thì đâu mất
ơi tượng đồng lặng câm
người vô tri vô giác
sao hiểu được lòng ta
như sóng triều dào dạt
ơi phấn trắng bảng đen
thôi cũng đành vĩnh biệt
rồi năm tháng cuối đời
chắc nhớ người tha thiết
mai có ai khóc ta
khi về thăm trường cũ
cứ nhìn mây lưng trời
lắng tai nghe gió thổ
ta đến khi tóc xanh
ta về tóc đã bạc
đóa hồng nào cho ta
sao đóa hồng tím ngắt”
(Bỏ Trường Mà Đi)
Tâm sự man man buồn của cuộc chia tay này, không nhuốm vẽ đau đớn, nhưng xót xa vô hạn. Ta đến khi tóc xanh, ta về khi tóc bạc, rồi lặp lại ta về tóc đã bạc, một xác định, một nhìn nhận chua xót đến não lòng. Ở đây còn cho thấy cái hoa tay đặt câu, dùng chữ của tác giả. Một đời người dài được mấy lần bốn mươi ? Nỗi tiếc nuối rõ ràng lấp ló đâu đó, trong cái nghi ngại, ta thán. Làm sao có thể không hồi tưởng tuổi thanh xuân lặng lẽ vụt qua. Ngày tiếp ngày, không nhận dạng được bước chuyển động của thời gian, nhưng rồi cái đến đã đến. Không tự hào mà là một lần soi thấy mình trung trực: ta đến hồn như trăng, ta về lòng như suối. Đến đi vẫn luôn luôn trong sáng, nhẹ nhàng. Những chút gì còn đọng lại khắp nơi, ngay trên những giọt bụi ? Dù có được thăng hoa vẫn không thể xóa ngậm ngùi. Hàng cây, gốc phượng, phấn trắng bảng đen, rõ ràng đã dùng tấm lòng để thay bàn tay vẫy. Có cúi mặt, có ngẩn ngơ, có lặng câm... thơ đều nhìn rõ hết. Cảm ơn những chân tình. Người ra đi, đang lắng tai nghe lại những mẩu vụn kỷ niệm, qua tiếng thơ sâu thẳm của chính mình. Cả một đời dạy học dài bốn mươi năm, một lượng thời gian tưởng chừng đã đủ đi vòng quanh trái đất bước đi trên hành lang/ bước đi trong lớp học/ cộng lại bằng con đường/ nối vòng quanh trái đất , nhưng rõ ràng trong phút giây đó, người thơ không đi qua khỏi những buồn phiền trong lần chia tay vĩnh viễn. Bốn câu thơ giản dị, nhưng thật đẹp trong một liên tưởng tạo hình ảnh rất thơ.
Với mười đoạn ngũ ngôn, người thầy giáo bỏ cuộc chơi, đã dàn trải đủ và hết lòng mình. Thú thật, lâu nay tôi đọc thơ Trần Hoan Trinh không được kỹ. Cũng may vẫn còn đủ thời giờ đọc lại và gặp được những thú vị như hôm nay. Có một nhận xét, theo chủ quan của tôi: Trong đoạn 7, nếu tác giả hướng cảm xúc và suy nghĩ qua một chiều khác, có thể, với riêng tôi, sẽ thoải mái hơn. Bởi vì tượng đồng ở đây, tuy thực chất vốn vô tư trung trực như tác giả viết, nhưng là hình tượng của một nhân vật cách mạng, đang là biểu tượng cho ngôi trường. Tại sao chúng ta không tưởng tượng, để nhìn thấy linh hồn của bức tượng. Linh hồn đó lại biết ngậm ngùi, cảm thông với những lời an ủi vô âm. Hồn thơ của đoạn này chắc sẽ giàu hơn, đậm đà hơn.
Trần Đại Tăng đã thật sự chia tay với nghiệp giáo chức. Nhưng Trần Hoan Trinh vẫn tiếp tục ở lại với mái trường. (“... người ra đi nhưng lòng còn ở lại / nên thơ tôi cứ mãi mãi ngậm ngùi...”. ) Một mái trường suốt đời làm thầy, anh gắn bó chung thủy, “ôi ngôi trường thân yêu /cả một đời ở đó” nhưng“vẫn còn thấy chưa nhiều / vẫn còn nghe mới lạ” bởi vì ngôi trường đó “... là hơi thở/ đã nuôi sống tình anh”.
Cũng từ mái trường đó, Trần Hoan Trinh cùng bạn đồng nghiệp, cùng đám học trò qua nhiều niên khóa khác nhau, dựng nên được “một thời Phan Châu Trinh” lấp lánh những kỷ niệm: “... anh chợt thấy sáng nay trong nắng lạ / cả một thời vang bóng Phan Châu Trinh qua” với một Trần Đình Quân (nhạc sĩ) xanh xao ủ rũ, với “những khuôn mặt ghen hoa thẹn nguyệt/ Thu Liên, Thu Hà, Qúy Phẩm, Bích Quân” cùng những tên gọi thân tình:Tâm Nguyên (tiếng hát học trò), Trần Ngọc Châu, Nguyễn Đình Nghĩa, Liên Phượng (Nguyễn thị) Duy Nhân (Phan Chánh Dinh), Luân Hoán (Lê Ngọc Châu), Hà Nguyên Thạch (Nguyễn Văn Đồng), Phan Nhật Nam, Lệ Hằng, Nguyễn Bá Trạc...
Cái hạnh phúc của Trần Đại Tăng, cái hãnh diện của Trần Hoan Trinh, nằm ở chỗ, môn đồ của anh thương yêu anh. Những người không trực tiếp được anh giảng dạy cũng một mực kính quí. Tình cảm này một phần do lễ giáo, một phần từ cái thực tài lẫn đạo đức. Anh lãng mạn nhưng nghiêm túc, đứng đắn. Anh mơ mộng, nhưng yêu nghề, tròn bổn phận làm thầy. Hai cánh tay, hai nghiệp dĩ như luôn luôn tương trợ nhau. Nhờ vậy, ngòi bút Trần Hoan Trinh thật sung sức, gieo trồng trên cánh đồng văn học, những nụ thơ thời học trò, hơn hẳn những người làm thơ khác. Khởi đầu tập thơ là Chiều Một Mình Sân Trường, dẫn theo những Tháng Năm Huyền Thoại, Chuyện Tình Học Trò, Xin Chào, Thưa Thầy Còn Nhớ Con Không, Tóc Trắng Sân Trường, Bỏ Trường Mà Đi, Cho Em Một Cành Phượng Đỏ, Huyền Thoại, Dạy Toán, Lời Buồn Bên Lớp Học Chiều, Chiều Đi Qua Trường, Một Đời Thầy Một Đời Thơ, Một Chiều Về Thăm Trường Cũ, Tấm Bảng Đen, Thoáng Buồn, Hoa Phượng, Ngày Xưa Ngày Nay, Có Một Ngôi Trường Có Một Tình Yêu, Học Toán, Tiếng Chim Ngoài Cửa Lớp, Nói Gì Với Em, Điểm Không Điểm Mười, Cúi Đầu, Bài Thơ Học Trò, Lang Thang Cửa Lớp Sân Trường, Con Ong Làm Tổ, Được Tin Người Bạn Chết Trên Bục Giàng, Cô Học Trò Nhỏ, Bỏ Lớp Mà Đi, Chiều Trên Sân Trường, Bài Ca Bẻ Phấn, Một Lần Đi, Thơ Viết Bên Cửa Lớp Trường Tư, Buổi Học Cuối, Một Thời Phan Châu Trinh... Chỉ đọc những tựa bài nêu trên, những ai đã từng có những tháng năm với sách đèn, chắc đều tưởng như gặp lại một chút gì đó thân thương của riêng mình.
Bỏ Trường Mà Đi, không chỉ qui tụ những bài thơ đậm đà hương bút mực, mà còn rất phong phú trong nhiều nội dung khác. Những suy tư về cuộc đời, về thân phận cũng được tác giả diễn đạt dưới một phong thái giản dị, không cầu kỳ. Dòng thơ như một mạch nước, có lúc êm đềm, có lúc gợn lên những thao thức nhẹ nhàng, sâu lắng. Sẽ rất là vu vơ mơ hồ, nếu không trích dẫn đôi bài tiêu biểu:
“Xin khép lại một trang đời mộng ảo
vẫy tay chào năm tháng đã đi qua
mai anh về như con chim trốn bão
đứng co mình nhớ biển rộng trời xa”
(Bài Du Ca Cuối Cùng)
“mình về bỏ đó chiêm bao
không còn bụi phấn bám vào tóc sương
áo em bay trắng đêm buồn
tiếc ngơ ngẩn một thiên đường đã xa”
(Còn Đó Nỗi Buồn)
“... ta một đời tỳ khâu
đi lang thang khất thực
sao trên từng bước đau
Tâm vẫn không tỉnh Thức...”
(Giọt Thiền)
“...anh kà du tử
đứng trên phố buồn
nghe lòng như sóng
trôi vào hoàng hôn...”
(có 1 con đường bên 1 dòng sông)
Bỏ Trường Mà Đi không phải là tác phẩm đầu tay của ông thầy dạy toán đa tình. Anh đã có khai trong Tự Khúc : “ta đến hai tay không/ ta về hai tay trắng/ chẳng có gì mang theo/ ngoài chút tình nghĩa nặng...” Nhưng, hình như trong gói hành lý, anh đến với trung học Phan Châu Trinh, còn có tập thơ đầu tay, Tôi Khóc Em Cười. Nghiệp thơ của anh, có thể khởi đi từ đất thần kinh, nhưng chắc chắn vững mạnh nhờ khí hậu thơ Đà Nẵng, Quảng Nam. Hẳn thế, nên Trần Hoan Trinh còn có thi phẩm “Tóc Trắng Sân Trường” trước khi “Bỏ Trường Mà Đi”
Điểm sau cùng, tôi không thể bỏ qua. Đó là những đóng góp tình nghĩa, bằng các bài viết, của những khuôn mặt được gọi là Trò Xưa. Từ một Phan Nhật Nam nổi tiếng với nhiều tác phẩm văn học, đến những tay viết ngọt ngào và chín chắn như trò xưa Phan Thủy, trò xưa Phan Thu Hà, trò xưa Nguyễn Hữu Viện, trò xưa Lê Thị Thanh Sơn, trò xưa Phan Thái Yên Thy... Bài thay lời tựa tuy hai chữ trò xưa không kèm theo một quí danh nào. Nhưng qua vóc dáng chữ nghĩa có thể đoán được người viết bài, đi lại đã nhiều trong lãnh vực cầm bút. N ?. T?... dù là ai, cái tình bày tỏ kia mới đáng quí.
Cảm ơn thầy Trần Đại Tăng, cảm ơn nhà thơ Trần Hoan Trinh, cảm ơn đôi mắt trên đoạn đường Đống Đa, cảm ơn Nguyễn Hữu Viện, Thu Hà, Phan Thủy, Yên Thy, Thanh Sơn, Phan Nhật Nam...
Tôi thật tình thèm viết hai chữ “trò xưa” phía trước tên mình, để kết thúc những dòng ba hoa. Nhưng thật mắc cở, bởi thực chất, tôi chỉ được “xưa” có một nửa. Thầy và các bạn hiểu ra rồi đó.
Hà Khánh Quân
(10g 18’ ngày 03-9-2009)
Thầy ra đi, mất cây cổ thụ làng giáo Đà Nẵng,
Trả lờiXóaThầy ra đi Tộc Họ mất người ông mẫu mực,
Thầy ra đi Vâng chúng tôi mất người Thầy thân thương,
Thật đau xót vô cùng!
Thôi ". Sanh ký tử Quy "
Sống là nơi ở tạm , thác là nơi vỉnh viển đi về,
Trước án tiền đốt nén tám nhang, vâng chúcTThầy sớm vinh quang phuc sinh,
Chúc Tang gia Hiếu quyến vạn sự viên thành
...Xin vỉnh biệt Thầy Trần Hoan Trinh.