Nước Mỹ có ngành nông nghiệp tân
tiến, hiện đại nhất thế giới. Lao động nông nghiệp chiếm khoảng 1%
trong tổng dân số 322 triệu người. Nếu tính dưới góc độ lực lượng lao
động thì lao động ngành nông nghiệp của Mỹ chỉ chiếm 0,7% tổng số lực
lượng lao động của toàn nước Mỹ tính đến thời điểm năm 2014 (với
155.421.000 người).
Diện tích nước Mỹ là 9,161,923 km2,
trong đó diện tích đất có thể canh tác được chiếm 18,1%. Theo thống kê
của Bộ Nông nghiệp Mỹ, tháng 02/2014, Mỹ có 2,109,363 tổng số nông trại,
trung bình mỗi trại có diện tích 174 héc ta.
Năm 2012, tổng giá trị sản phẩm nông
nghiệp đạt 394.6 tỷ đô la Mỹ, tăng 33% so với năm 2007, trong đó giá trị
các sản phẩm trồng trọt là 219.6 tỷ đô la, giá trị sản phẩm chăn nuôi
đạt 171.7 tỷ đô la.
Xuất nhập khẩu nông sản, Mỹ là nước dẫn
đầu thế giới, ước tính chiếm 18% thị phần thương mại nông sản của toàn
cầu.Từ năm 1960 đến năm 2014, Mỹ luôn thặng dư về thương mai các sản
phẩm nông nghiệp, ví dụ như xuất khẩu nông sản năm năm 2014 ước tính đạt
149.5 tỷ đô la, chiếm hơn 10% tổng số kim ngạch xuất khẩu tất cả các
mặt hàng và thặng dư mậu dịch nông nghiệp lên đến hơn 38.5 tỷ đô la Mỹ.
Dưới đây là một số lý do giải thích vì
sao nước Mỹ có một tỷ lệ nông dân rất nhỏ so với tổng lực lượng lao
động, mà lại có một nền nông nghiệp lớn mạnh như vậy.
1- Chính sách hỗ trợ nông nghiệp của chính phủ
Các chính sách ủng hộ việc phát triển
nông nghiệp của chính phủ Mỹ đã làm nên sự thành công của ngành nông
nghiệp Mỹ. Ngay từ thời kỳ đầu, Chính phủ đã ban hành luật đất đai vào
năm 1862 quy định phát không đất đai cho những người đến sống và làm
việc trên các mảnh đất trống tại miền Tây nước Mỹ, tạo điều kiện cho một
số nông dân được định cư, lập nghiệp dễ dàng.
Vào năm 1914, Quốc hội Mỹ đã lập ra cơ
quan Dịch vụ phát triển nông nghiệp, cơ quan này tuyển dụng đội ngũ cán
bộ để cố vấn cho các hộ nông dân từ bước sử dụng phân bón cho đến các
khâu sau của quy trình sản xuất nông nghiệp. Bộ Nông nghiệp đảm nhiệm
tiến hành các nghiên cứu mới, cho ra đời những loại phân bón làm tăng
sản lượng hạt, các loại giống lai cho cây trồng khoẻ hơn, các phương
pháp chữa trị nhằm bảo vệ và cứu chữa cây trồng vật nuôi chống được bệnh
tật, và nhiều phương pháp khác kiểm soát các loài vật gây hại.
Vào năm 1929, tổng thống Herbert Hoover
thành lập ban nông nghiệp liên bang nhằm bảo đảm sự ổn định kinh tế cho
nông dân. Năm 1933, Tổng thống Franklin D. Roosevelt cho phép thực hiện
một hệ thống trợ giá cho nông dân một mức giá gần bằng giá lúc thị
trường ở điều kiện ổn định bình thường. Đồng thời, trong khoảng thời
gian từ 1933 đến 1996, chính phủ cho nông dân vay tiền canh tác, nông
dân có quyền trả nợ theo giá quy định trong hợp đồng. Cụ thể là vào
những thời điểm sản xuất dư thừa, nông dân bán sản phẩm cho chính phủ,
còn vào lúc giá nông phẩm cao, nông dân có quyền bán sản phẩm cho các
công ty kinh doanh lương thực để tăng lợi tức.
Ngoài ra, chính phủ còn đề ra chính sách
bảo tồn, dưỡng đất dự trữ. Sự can thiệp với quy mô lớn vào ngành nông
nghiệp Mỹ được kéo dài cho đến tận cuối những năm 1990. Sau đó, chính
sách trợ giá nông nghiệp chỉ duy trì ở mức thấp, chính phủ tập trung vào
chương trình dự trữ chiến lược, chống thiên tai, bảo vệ môi trường,
nghiên cứu khoa học, để phục vụ hiệu quả cho ngành nông nghiệp Mỹ.
Hiện nay, chính phủ đang chú trọng đến
xuất khẩu nông sản, và đặc biệt quan tâm đến tính vững bền của lực lượng
lao động nông nghiệp. Thượng viện vừa thông qua dự luật di dân nhằm mục
đích bảo đảm có đủ số công nhân cần thiết cho nền nông nghiệp, đặc biệt
là vào mùa gặt hái, chăn nuôi gia súc, và sản xuất nông phẩm cần thiết
cho xuất khẩu. Đạo luật này cũng mở đường cho những người làm việc trong
ngành nông nghiệp Mỹ mà chưa có giấy tờ hợp lệ được phép nhập cư vào
Mỹ.
Chính nhờ các chính sách hỗ trợ một cách hiệu quả này đã mang lại cho ngành nông nghiệp Mỹ một kết quả tốt đẹp như ngày hôm nay.
Tính tự chủ và sáng kiến của nông dân
Xét trên giác độ lịch sử, nông dân Mỹ
được nhìn nhận với tính tự chủ rất cao, cần cù, sáng tạo, kiên nhẫn và
đầy nhiệt huyết. Và thời kỳ đầu, những người nông dân này đến Mỹ với bàn
tay trắng, tự làm việc trên những mảnh đất không có giấy tờ sở hữu.
Năm 1790 nông dân Mỹ chiếm 90% dân số.
Số lượng nông dân giảm liên tiếp qua thời gian, đến năm 1920, nông dân
Mỹ chiếm 30.8% tổng dân số, đến năm 1960, họ chiếm 8,3% tổng dân số và
đến thời điểm năm 2014, ước tính số lượng nông dân Mỹ thực sự hoạt động
trên đồng ruộng chỉ chiếm khoảng 1% trong tổng số toàn dân Mỹ.
Những người nông dân này thực hiện vận
hành các nông trại nhỏ và vừa được của chính gia đình họ, hay họ thành
lập nên những công ty do chính họ làm chủ, chiếm tới 95% tổng diện tích
đất nông nghiệp được canh tác, 5% còn lại thuộc về các tập đoàn lớn làm
chủ.
Nông dân Mỹ sử dụng máy móc rất thành
thạo, có trình độ hiểu biết cao về nông nghiệp và kinh tế, nhiều người
có bằng đại học. Họ chú trọng vào việc cải thiện kỹ thuật trồng trọt, kỹ
thuật chăn nuôi gia súc dẫn đến sản lượng nông nghiệp tăng mạnh. Hình
ảnh người nông dân Mỹ ngày nay là hình ảnh của người công nhân nông
nghiệp. Họ hay mặc quần jean, áo carô màu, sống trong những khu vực đầy
đủ tiện nghi.
Thu nhập của người làm nghề nông ở Mỹ
khá cao, mức lương trung bình hiện nay của một công nhân nông nghiệp Mỹ
là 61.000 đô la/năm. Tính trên hộ gia đình thì thu nhập trung bình của
một gia đình nông dân năm 1960 là 4.654 đô la, đến năm 2012 thì thu nhập
trung bình là 108.814 đô la, tăng 23,38 lần trong thời gian 52 năm.
Áp dụng phương tiện và kỹ thuật hiện đại trong sản xuất nông nghiệp
Nước Mỹ đặc biệt nhấn mạnh đến việc cơ
giới hóa các phương tiện canh tác, sử dụng máy móc thay thế cho sức
người và sức súc vật. Chi phí máy móc chiếm một tỷ lệ rất lớn trong tổng
chi phí đầu tư vào sản xuất nông nghiệp. Việc cơ giới hóa máy móc không
chỉ đơn thuần là tăng số lượng máy móc trên cánh đồng mà còn chú ý đến
thực hiện kết hợp các tính năng để tạo ra các máy liên hoàn, kết hợp máy
kéo với máy cày, máy gieo trồng, máy gặt. Hay các sáng kiến về các loại
máy móc có thể canh tác được ở những vùng đất cứng mà sức người khó có
thể làm được. Hầu như mọi hoạt đông trong sản xuất nông nghiệp đều thực
hiện bằng máy móc, từ làm đất, gieo trồng, bón phân, tưới tiêu đến gặt
hái. Nông dân còn dùng máy bay để phun thuốc trừ sâu, dùng máy điện toán
đề theo dõi kết quả thu hoạch. Ngày nay, không có gì lạ khi nhìn thấy
những người nông dân lái máy kéo với các ca bin lắp điều hòa nhiệt độ,
gắn kèm theo những máy cày, máy xới và máy gặt có tốc độ nhanh và rất
đắt tiền.
Vào đầu thế kỷ 20, phải có 4 nông dân mới sản xuất nông phẩm đủ nuôi cho 10 người, ngày nay, một nông dân Mỹ có thể cung cấp đủ lương thực nuôi 100 người Mỹ và 32 người đang sống tại các nước trên thế giới.
Với diện tích đất canh tác rộng lớn nên
việc áp dụng các phương tiện và kỹ thuật hiện đại trong sản xuất nông
nghiệp đã khiến cho năng suất lao động tăng mạnh. Bên cạnh đó, mặc dù có
những đợt lũ lụt và hạn hán nhưng nhìn chung lượng nước mưa tương đối
đấy đủ, nước sông và nước ngầm cho phép tưới tiêu tại các tiểu bang
thiếu nước. Vùng đất phía Tây thuộc miền Trung nước Mỹ có đất đai canh
tác màu mỡ. Chính vì vậy khi đến Mỹ, người ta thường thấy những cánh
đồng ngô, đậu nành, lúa mì, cam, cánh đồng cỏ, rộng mênh mông, xanh
tươi, bát ngát.
Với những lý do trên, ngành nông nghiệp
Mỹ đã đạt được những thành tựu to lớn, thực sự đóng một vai trò rất quan
trọng trong nền kinh tế Mỹ, với các loại thực phẩm dồi dào với giá rẻ,
tạo thêm công ăn, việc làm cho các ngành chế biến, sản xuất máy móc, và
đặc biệt dịch vụ xuất khẩu nông phẩm đi khắp các nước trên thế giới.
Bài học cho chúng ta
Nhìn lại ngành nông nghiệp Việt Nam, cho
đến thời điểm này, năng suất lao động trong ngành nông nghiệp của Việt
Nam luôn thấp nhất trong nhóm các nước có mức thu nhập trung bình thấp
và không thể bắt kịp được năng suất lao động của các nước này kể từ năm
2005. Trong khi đó, năng suất lao động của ngành nông nghiệp lại đang có
xu hướng chững lại, hiện chỉ bằng 1/3 so với năng suất chung của cả
nước.
Theo thông tin từ Viện Chính sách và
chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn (IPSARD), giá trị gia tăng
nông nghiệp trên mỗi lao động của Việt Nam năm 2011 đạt chưa tới 400
USD/người, thấp hơn cả Lào và Campuchia. Mặc dù nông nghiệp cũng là lĩnh
vực duy nhất của Việt Nam luôn có xuất siêu trong nền kinh tế. Trong
vòng gần 3 thập niên, nông nghiệp Việt Nam tăng trưởng đều đặn, đưa Việt
Nam trở thành nước xuất khẩu nông sản lớn trên thế giới với các sản
phẩm như gạo, tiêu, điều, sắn, chè, cao su.
Tuy nhiên, điểm đáng lưu ý là tăng
trưởng nông nghiệp và năng suất có xu hướng chững lại, tăng trưởng tổng
sản phẩm nội địa (GDP) của nông nghiệp giảm dần từ mức bình quân 4,5%
giai đoạn 1995-2000 xuống 3,8% giai đoạn 2000-2005 và chỉ còn 3,4% giai
đoạn 2006-2012.
Chính vì vậy, để có được những bước đột
phá cho ngành nông nghiệp Việt Nam, có lẽ cần có những chính sách sát
hữu hiệu giúp đỡ người nông dân một cách toàn diện hơn nữa. Có như vậy
ngành nông nghiệp Việt Nam mới có thể phát triển bền vững.
Nhật Hạ tổng hợp
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét