Thứ Năm, 9 tháng 1, 2014

ĐẶC SAN 50 NĂM - Bên Em Auprès de ma Blonde



Lời thưa cùng độc giả: Trong văn chương, sáng tạo hay hư cấu là điều không có gì lạ, thế nhưng có những sự thật giữa cuộc đời khi được vẽ thành một bức tranh ngôn ngữ lại trở nên khó tin. Bài viết dưới đây là chuyện thật, hoàn toàn thật. Chỉ có một điều, trước khi viết, tác giả không thể liên lạc để xin phép dùng tên thật của tất cả các nhân vật, cho nên tên thật không có trong bài viết. Xin cảm ơn. NTY

Vào đầu tháng tám năm nay, đêm trước ngày cùng gia đình đi nghỉ hè xa, tôi nhận được email của Diễm báo tin Dove vừa mất. Thật bất ngờ, tôi quá xúc động. Đã hơn một giờ khuya lẽ ra phải vào ngủ để ngày mai đi sớm, nhưng tôi không thể không trả lời email lúc này. Vô cùng thương tiếc, Dove ơi! Tôi đã rưng rưng viết, một chút vỗ về gởi vội cho Minh. Tại sao thế? Hôm qua em nói Dove đã khoẻ nhiều, lên cân đến ba mươi sáu pounds, tại sao? … Thật xót xa, tôi không thể có mặt bên em trong những ngày đau buồn này, vì sáng sớm mai gia đình tôi sẽ đi xa.
Từ Maui, tôi gọi điện thoại về Sacramento làm sao để vòng hoa chia buồn đến với gia đình Minh. Không được. Tôi tìm cách gọi một đồng nghiệp. Cảm ơn bạn đã giúp tôi. Khi tôi trở lại Sacramento, việc ma chay cho Dove đã xong. Lễ tang đơn giản. Người cựu chiến binh an nghỉ thật bình yên. Xác thân còn lại cho vợ để trong cái hộp màu lam chỉ lớn hơn bàn tay.
Đây là nơi hoả táng Dove tuần trước. Người chị, người anh, người cháu của Minh, cô bạn lái xe và tôi ngồi yên, không thể xuống xe đi theo em vào trong ấy vì sợ trễ giờ làm lễ. Phải còn lái xe thêm hơn bốn mươi phút mới đến nơi an nghỉ cuối cùng của Dove. Tôi nghe tiếng bật khóc trước khi thấy Minh bước ra từ cánh cửa ấy, ôm trên tay hộp tro cốt của Dove, tiến về phía chúng tôi, bước vào xe, ngồi bên tôi. Tiếng khóc xoắn xuýt tỉ tê, anh ơi … à … 
Khi xe chúng tôi vừa đến cổng nghĩa trang Sacramento Valley National Cemetery, nơi an nghỉ dành cho cựu chiến binh Hoa Kỳ, hai người lính trong lễ phục quân đội, trang nghiêm đứng thẳng như pho tượng, bắt tay chào. Lễ an vị tro cốt người cựu chiến binh tổ chức tại đây. Tiếng khóc ai oán lại vang lên. Buổi lễ đơn giản nhưng rất trang trọng, đúng quân cách binh chủng Lục Quân Hoa Kỳ. Người mục sư làm lễ. Người đại diện binh chủng nói lời phân ưu. Minh quỳ xuống nức nở trước bệ đá. Trên bệ đá, mấy chậu hoa, chiếc bánh lớn, hộp bánh nhỏ, những lá cờ nho nhỏ và các kỷ vật … để quanh chiếc hộp tro cốt và di ảnh của Dove. Bên cạnh, một vòng hoa tươi chia buồn. Vòng hoa kết bằng những đoá hoa làm thành lá cờ Mỹ ba màu: xanh, trắng, đỏ. Viết trên băng vải màu trắng vắt ngang qua vòng hoa là lời thương tiếc của hai giáo sư trường Cosumnes River College dành cho Dove và chia buồn cùng gia đình. Những chia sẻ cuối cùng của thân nhân, mỗi người lần lượt dành cho Dove: Minh – vợ Dove, chị và em trai của Dove. Những lời từ giả, tiếc thương của người thân, bác sĩ, y tá, và bằng hữu … tôi đọc cho Dove. Tiếp theo là nghi thức trao quà tặng của tổng thống Barack Obama dành cho quả phụ. Hai người lính trong quân phục nghi lễ Hoa Kỳ trang trọng mở món quà ra từ chiếc gối nhỏ. Một lá quốc kỳ Mỹ bằng vải dệt rất khéo lớn rộng đến không ngờ. Rồi lá quốc kỳ được chính hai người lính ấy trong nghi thức trang trọng, xếp lại, gọn nhỏ làm thành chiếc gối hình tam giác. Minh ôm lấy chiếc gối nức nở.
Trên xe trở về, trong buổi ăn trưa, tôi nhìn Minh rất sâu. Em rã rời quá đỗi. Bao nhiêu tháng năm chăm sóc Dove. Từ nhà vào bệnh viện, từ bệnh viện trở về nhà. Dove lại trở bệnh, vào bệnh viện, chuyển qua nursing home … trở lại bệnh viện, bốn năm chịu cơn bệnh nghiệt ngã. Thế nhưng, Dove lại ra đi quá đột ngột. Đôi chân mày nhíu lại cứ ở mãi nơi vầng trán Minh, đôi môi mếu máo và nước mắt cứ tuôn, rơi xuống, rơi xuống. Tôi nói với Minh, em hãy giữ lòng tiếc thương Dove, nhưng thân em phải khoẻ và tinh thần phải mạnh mẽ. Em phải ổn định để sống mới có thể làm được những gì còn lại cho Dove. Dạ, em nhớ lời cô dặn. Tôi về và thầm mong gặp lại Minh trong một dịp sớm nhất.
Chúng tôi gặp lại nhau tại một nhà hàng chay. Diễm và Minh, hai chị em là hai người sinh viên của tôi ba năm trước tại Cosumnes River College. Chúng tôi rất hợp nhau nên dễ gần gủi và trở thành thân thiết. Vừa có chút hanh hao còn lại của tình thầy trò, vừa tâm đắc, những lần gặp gỡ hiếm hoi của chúng tôi thường rất ấm áp. Tôi lái xe đến nhà đón Diễm, còn Minh thì đi xe bus từ trường college đến thẳng nơi hẹn. Trời đã chiều, ánh mặt trời hướng tây đỏ ối. Nhà hàng giờ ăn tối đầy thực khách nhưng toàn là người bản xứ, chỉ có ba chúng tôi là người Việt. Minh đến trước đã lấy bàn. Xấp ảnh chụp đám tang và ngày lễ an vị Dove để trên bàn. Câu chuyện bắt đầu như một dòng chảy liên tục trong tâm thức của chúng tôi. Minh lại thao thao về những gì đã xảy đến trước khi Dove mất, khi Dove ra đi và sau đó. Tôi nhìn Minh lắng nghe. Trên khuôn mặt không son phấn, nước da khô, đôi chân mày liên tục co lại thành cái dấu ớ khắc khoải phủ lên toàn vẻ mặt ấy. Tôi băn khoăn nói với Minh, em cần phải tỉnh táo để trở lại cuộc sống bỉnh thường. Phần tôi, tôi biết mình nên làm gì để giúp Minh ổn định lại tinh thần, nhưng không chắc có thể bắt đầu được lúc này. Tôi nói:
- Bây giờ mình chọn món ăn.
Minh ngừng nói, mỗi chúng tôi mở cuốn thực đơn.
- Thôi cô chọn dùm cho tụi em đi, em không quen gọi những món ăn chay bằng tiếng Anh, cô ạ.
- Vâng, mình chọn món “bánh ướt cuốn tàu hủ nướng” để nhâm nhi trước, rồi sẽ gọi cho mỗi người một món khác nhau và cả ba sẽ ăn chung.
Tôi nhanh nhẹn làm cho xong việc gọi thức ăn để nói chuyện. Những tấm hình được giở ra. Tôi bàng hoàng, chảy nước mắt. Dove nằm ngủ bình yên, những đoá hoa tươi cài lên ngực, vắt qua hình hài Dove. Người cựu chiến binh Mỹ vừa nằm xuống trên quê hương anh và anh đã thoả nguyện. Minh lại nói, lại khóc. Diễm thương em, nhìn Minh lắc đầu.
- Thôi Minh, tôi nói và tiếp, em phải ổn định lại tinh thần. Không ai có thể giúp được em, nhưng em có thể, Minh à. Hãy tỉnh thức! Chỉ còn một lớp học nữa em sẽ ra trường, phải chuẩn bị để xin việc. Đừng quên là khi đi xin việc, khả năng, tinh thần và sắc diện của em sẽ quyết định em có được job hay không.
- Em cám ơn cô và sẽ nghe lời cô. Cô à, không ai đã cho em những lời khuyên ấm áp như cô. Em cứ đọc đi đọc lại mấy cái email của cô. Em cảm động lắm cô ạ. Khi còn sống, Dove thường nói về cô. Anh nói, cô là một người bạn tốt. Cả nhà em rất quý cô. Cô ơi, ở nursing home nếu người ta chăm sóc Dove chu đáo, cứu chữa kịp thời thì anh chưa mất đâu cô. Cô biết không, mấy tháng trước sau ca mổ, ông bác sĩ nói với em “Congratulations!”, họ cho biết Dove có thể sống! Cô à … Tôi ngắt lời Minh.
- Minh à. Bây giờ mình ăn một chút rồi nói chuyện kẻo thức ăn nguội mất ngon.
Món khai vị đã đem ra. Những cuốn bánh ướt nóng được sắp gọn đẹp trên chiếc dĩa men màu trắng tinh khiết, bên cạnh, cái chén nhỏ xinh xinh đựng thứ nước chấm trong veo lóng lánh chút ớt đỏ tươi. Chỉ nhìn thôi, người chưa ăn đã cảm được hương vị thanh ngon của món bánh cuốn. Lúc nào cũng vậy, khi đến quán ăn này, tôi thường thích ngồi lâu, thong thả trò chuyện trong khi đợi món ăn đem ra. Và khi ăn, tôi thích ăn chậm, thong thả, vừa lắng tâm vừa thưởng thức từng chút ngon đẹp của món ăn. Tuy thế, giờ hẹn của chúng tôi bắt đầu đã khá chiều, chúng tôi vừa nhâm nhi vừa nói chuyện, những món ăn khác cũng đang lần lượt đem ra. Diễm vốn trầm lặng, khiêm tốn. Minh tính tình hồn nhiên nhưng lúc này nụ cười mất hẳn trên môi.
Minh lại bắt đầu kể chuyện về Dove. Tôi liếc nhanh qua khung cửa, bên ngoài hoàng hôn đang xuống. Minh kể về những ngày Dove bắt đầu bị bệnh. Lần đầu tiên anh phát bệnh cách đây hơn bốn năm, gia đình em rất đơn chiếc, chỉ có chị Diễm và em xoay sở mọi việc. Những lần anh trở bệnh nặng, phải di chuyển vất vả từ bệnh viện này sang bệnh viện khác. Về nhà, rồi anh lại trở bệnh… Một vài chi tiết trong lời kể tôi đã được nghe, thế nhưng mỗi lần nghe, tôi vẫn không cầm được nước mắt. Tôi lập lại điều đã nói với Minh khi Dove còn sống:
- Dove là một người “positive”, thân thiện, và rất dễ gần gũi. Tiếc cho Minh đã mất đi người chồng tốt. Nhưng Mình à, cuộc đời “vô thường”, trên thế gian này mọi thứ đổi thay trong từng giây phút, rồi ngày mai, mặt trời sẽ đem ánh sáng trở lại cho em! …
Sau mười năm gia nhập quân đội, tham chiến ở Triều Tiên, Pháp và Đức, Dove trở về sống cuộc đời người cựu chiến binh Mỹ trên quê hương anh. Người Mỹ, kiểu Mỹ. Minh kể: Gần bốn năm lâm bệnh anh thường áy náy phải làm phiền em và gia đình. Trong thời gian dưỡng bệnh, anh đã tìm được một công việc bán thời gian, kiếm được chút thu nhập, nhưng anh lại trở bệnh, phải nghỉ việc. Anh là người lạc quan, anh tin rằng anh sẽ vượt qua cơn bệnh hiểm nghèo và sẽ sống mãi bên em. Thế nhưng, khi bệnh trở nên quá nặng, anh dặn em, khi anh mất chỉ dành cho anh ba mươi phút tang lễ là đủ, hãy thiêu anh đi và đem tro cốt của anh thả vào dòng sông, anh sẽ nương theo dòng nước ra khơi, rồi tìm về với mảnh đất nơi anh sinh ra và lớn lên. Anh sẽ gặp lại cha mẹ anh ở bên kia thế giới ngay trên thành phố Seattle, ở đó, có cây lá xanh tươi bốn mùa, có nhiều mưa, hiền hoà hơn nhiều thành phố khác. Cô ơi… Minh khóc và tiếp, anh đưa bàn tay trái lên, chỉ vào chiếc nhẫn và nói: “Anh sẽ đem theo mãi mãi bên mình tình yêu của anh. I love you, Minh! You are my true love.” Minh lại nức nở… Tôi để cho Minh khóc tự nhiên với cảm xúc ấy.
Minh nói. Diễm ngồi lặng lẽ. Tôi lắng lòng nghe. Bên ngoài trời đã bắt đầu tối. Hình ảnh Dove và Minh trong lễ cưới bỗng trở về, hiển hiện trong tôi. Trên chiếc xe lăn, chú rể cười tươi trong bộ veston màu xám tro đậm, sơ mi trắng, cà vạt đỏ, bên cạnh, cô dâu áo dài nhung đỏ, đầu kết vương miện. Cả hai cùng đưa cánh tay phải lên phát nguyện lời thề trước mặt vị mục sư. Rồi Dove đưa lên bàn tay trái, chìa ra ngón tay đeo nhẫn, hôn lên chiếc nhẫn. Dove gỡ vội cặp kính, lau nhanh hai dòng nước mắt … Anh hôn vợ… Rồi vội vả mang cặp kính vào, anh cười. Những người khách di động trên những chiếc xe lăn, dòng nước mắt lăn trên má. Đó là những người cựu chiến binh, những bệnh nhân của Matinez VA Hospital. Lễ cưới đã ước hẹn trước khi Dove lâm bệnh, được tổ chức ngay tại vườn sau của bệnh viện Matinez.
Hôm ấy cả Minh và Diễm hát hay quá, tôi nói, mình rất xúc động. Mình mong được nghe lại một lần nữa cả hai bài hát. Bài Minh hát thật ý nghĩa, mà bài hát của ai vậy Minh? Còn Diễm, hát rất chuyên nghiệp. Minh nói, hôm ấy, cảm động khi nhìn những người khách ngồi xe lăn, em chợt nghĩ đến bài “Tổ Quốc” của nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ, nhưng em không nhớ trọn bài nên chỉ hát một đoạn và dịch sang tiếng Anh. Rồi tự nhiên Minh hát. “Mất tay còn chân, chân nhảy liên hoan. Mất chân còn tay, tay ôm bè bạn. Mất tai còn mắt, mắt ngắm cầu vồng. Mất mắt còn tai, tai nghe chim hót. Ôi nếu không còn gì, nằm lòng đất nghỉ, nằm lòng đất nghỉ. Ôi Tổ Quốc mất đi …” Tôi lặng người. Hát xong, Minh nhắc Diễm, chị hát lại bài đó cho cô nghe đi. Rồi cô hát cho tụi em nghe nha, em thích nghe cô hát một bài tiếng Pháp. Tôi im lặng. Diễm bắt đầu hát. “No flower that blows this like is like this rose. No flower that blows this like is like this rose. Or scart such perfume, or scart such perfume … come sweetest flower and from this house, live hence-forth in my heart, live hence-forth in my heart…” “No Flower that Blows” của Thomas Linley là bài ca trong lớp Voice của Diễm. Diễm hát tròn trịa, giọng cổ mở sâu vào trong, môi miệng thực hiện đúng kỹ thuật thanh nhạc, rất điêu luyện. Vốn con nhà nòi âm nhạc, tốt nghiệp Piano ở Việt Nam, lại vừa học xong ngành Thanh Nhạc ở college, Diễm đã gom đủ ba mảng đời ghép lại. Tôi chưa hết ngẩn ngơ thì Minh và Diễm cùng nhắc, bây giờ cô hát cho tụi em nghe. Biết không thể từ chối, tôi cười, đáp lại bằng một đoạn bài hát tiếng Pháp “… Auprès de ma blonde, qu’il fait bon, fait bon, fait bon. Auprès de ma blonde, qu’il fait bon dormir … La caille la tourterelle, et la jolie perdrix. La caille la tourterelle, et ma jolie perdrix. Et ma jolie colombe qui chante jour et nuit. Auprès de ma blonde …” Tôi giải thích một chút về ý nghĩa của bài ca. “Auprès de Ma Blonde”, còn có tên là "Le Prisonnier de Hollande” xuất hiện từ thế kỷ 17, khoảng thời gian chiến tranh Pháp và Hà Lan, đời vua Louis 14, không rõ tác giả. “Blonde” là màu tóc vàng, hay người tóc vàng, chỉ người vợ yêu quý, hay người yêu. “La caille, la tourterelle, la perdrix, la colombe” là tên các loài chim. Bài hát chuyển qua tiếng Anh, có tên “Next to My Girlfriend”. Còn mình, tôi cười nói với Diễm và Minh, mình đặt tên cho bài hát “Bên Em”. Tôi không nói thêm về nguồn gốc bài ca, ngại xao động lòng Minh. Về sau, một vài phim, kịch và sách đã cảm tác từ ca khúc này nói về tình yêu của người lính trong thời chiến và giai điệu của ca khúc được làm nhạc nền cho các khúc quân hành hay diễu hành của quân đội ở Âu châu. Chúng tôi hát cho nhau nghe tự nhiên như chỉ có ba người ở một góc riêng nào đó. Thực khách người Mỹ những bàn chung quanh có nghe chúng tôi hát hay không, tôi cũng không biết.
Rồi bỗng nhiên tôi bắt đầu thật dễ dàng điều tôi muốn nói lúc này. Minh và Diễm à! Hai năm trước, Diễm đã học khoá Thiền Căn Bản và Minh cũng có dự mấy ngày của khoá học, tiếc là Diễm và Minh đã không thường xuyên đến sinh hoạt với nhóm. Giữa năm 2012 vừa qua, ở Sacramento có mở khoá Bát Nhã – Trung cấp II học trong 12 ngày, mình có tham dự. Trong mỗi khoá Thiền Tánh Không thường có một vài thiền sinh người Thiên Chúa giáo. Khoá này cũng vậy, trong số bốn mươi thiền sinh, có Joe là một bác sĩ người Mỹ, và vợ là Hà Dana, người Việt còn khá trẻ, cả hai là người Thiên Chúa giáo. Suốt khoá học, Joe luôn cần một người thông dịch. Tuy vậy, anh tham dự lớp rất chuyên cần. Cả hai anh chị đã theo học khoá Căn Bản và tiếp tục học khoá này. Thật ra, Joe đã có vốn thực hành thiền hơn mười năm qua, anh học và thực hành thiền để có chứng nghiệm bản thân cho công việc làm của anh. Joe đang dùng Thiền là một phương pháp trị liệu cho các bệnh nhân tâm thần của anh. Dana thường lặng lẽ, ghi bài chăm chỉ và ít nói. Cô có dáng vẻ là lạ trong cung cách, vẻ bên ngoài của cô dường như có chút màu sắc, và mình nhận thấy màu sắc ấy có vẻ hài hoà với cung cách của cô. Trong khoá học, nói chung, ít ai có dịp nói chuyện với ai. Chỉ vào giờ ăn trưa, khi mọi người thưởng thức những món chay ngon miệng, anh chị em có dịp hỏi han nhau đôi điều. Sau giờ ăn trưa, một số thích đi bộ thảnh thơi trong khu vườn nhỏ, ngắm nhìn cây lá, nhiều khóm trúc lung linh đầy sức sống, giàn su trĩu trái, mấy luống rau xanh mướt … để hưởng chút hương vị thiên nhiên dễ chịu. Tôi kể tiếp cho Diễm và Minh. Có một lần, khi vừa dùng trưa xong, Dana đứng bên mình, bất chợt cô nói: “Chị à, ni sư giảng bài hay quá phải không chị?” Mình trả lời, đúng vậy, mình thích lắm, Dana à. Rồi mình tiếp, vậy là mình đã nghĩ không đúng về Dana, mình cho rằng Dana quen dùng tiếng Anh nên có thể không cảm nhận được cái hay trong các bài giảng của ni sư. Dana cười thân thiện: “Em hiểu hết chị ạ. Ni sư giảng hay quá làm em cứ chảy nước mắt.” Vậy à, mình ngạc nhiên đáp. Dana tiếp: “Thật đấy chị, ngày nào em cũng chảy nước mắt, về nhà nhớ lại lời giảng của ni sư em còn chảy nước mắt.” Cô nói như thế! Diễm và Minh lắng nghe chăm chú. Tôi tiếp, chưa hết đâu, cách ba ngày sau, vào buổi tổng kết khoá học … trong phần chia sẻ của các thiền sinh …
Dana đứng dậy, đi lên phía trên, nhận cái micro từ ni sư và trở lại chỗ ngồi. Cả lớp yên lặng lắng nghe. Bằng giọng bắc vừa sắc ngọt vừa trầm ấm, cô thanh thản bắt đầu. “Thưa ni sư, con xin cảm ơn ni sư đã dạy cho chúng con những bài học về Thiền quá hay và hữu ích. Joe và con là người Thiên Chúa giáo. Con biết được lớp Thiền này nhân một dịp ghé mua thức ăn chay ở tiệm Hương Sen, cô bán hàng đã giới thiệu cho con đến học thử một khoá Thiền để thực tập, cô nói là rất lợi ích cho thân và tâm. Con đã đến đây và quả thật hai khoá thiền đã cho con rất nhiều lợi lạc.” Dừng một chút, cô xúc động nói tiếp. “Con mất bố mẹ từ khi còn rất nhỏ, sống ở Mỹ con không có người thân chung quanh. Con đã học xong bằng cử nhân và con đã có việc làm đúng với ngành học của con, nhưng con không thích công việc của con. Con luôn luôn cảm thấy không vừa lòng với đời sống của con. Con nuôi ước mong đi tìm những điều con mong muốn, nhưng con thường thất vọng. Bạn con có khi đã nói với con rằng con không cảm thấy vui với cuộc sống là bởi vì con không có tình yêu. Điều này không đúng, bởi vì con có người yêu. Con có một vài mối tình, nhưng con luôn cảm thấy không vừa lòng với những gì mình có. Con đã học thêm và chuyển ngành. Con đang làm một công việc thích hợp với năng khiếu và sở thích của con. Art. Con thích nghệ thuật, con thích làm cho cuộc sống này đẹp đẽ hơn. Có một khoảng thời gian con nghĩ đất Mỹ này không hợp với con và con đã đi ra nước ngoài nhiều lần. Con đã sang Ý, Thuỵ Sĩ, rồi qua Pháp, Đức, mỗi nước con đã ở vài năm, ở đó con cũng có người yêu, con cũng có công việc làm, nhưng con không hề vui với cuộc sống. Con vẫn mong ước tìm gặp một đời sống thích hợp với con để con yêu cuộc đời này hơn, nhưng biết nó ở đâu. Cho đến khi con học hai khoá Thiền này với ni sư … Ni sư giảng hay quá, con đã xúc động khi nhận ra sự thật của cuộc sống. Sự thật ấy là, vạn vật và mọi sự trên thế gian đều do duyên hợp, không có ngã và con bắt đầu hiểu nên làm gì để có thể sống hạnh phúc thật sự. Cái nhân của hạnh phúc không nằm trong tình yêu, tiền tài hay danh vọng, mà nó nằm trong sự tỉnh thức của con người giữa thế giới của tình yêu, tiền tài và danh vọng. Có sự tỉnh thức con người mới có khả năng tạo dựng và giữ gìn hạnh phúc của mình được lâu bền. Sự tỉnh thức chính là niệm biết không lời, nó là tính chất của lòng từ bi mà con người nên có. Từ hơn tháng nay, con đã bắt đầu thực tập để chứng nghiệm trong thân và tâm con. Con đã hiểu thế nào là an lạc, là hạnh phúc … Trong lớp học này mỗi ngày con đã chảy nước mắt. Và mỗi khi con cảm nhận được sự diệu dụng của Thiền, nhờ những lời dạy của ni sư, con đã chảy nước mắt. Thưa ni sư, con đã tìm ra nó! Thì ra, chính hạnh phúc ở trong con mà con không biết. Con đã bỏ ra hàng chục năm và nhiều hơn cả thế, để đi tìm cái không hề có ở bên ngoài con. Từ nay, con không cần phải đi đâu để tìm nó. Con đã biết con có thể làm gì để tìm thấy hạnh phúc mà con hằng mong mỏi. Con vô cùng biết ơn ni sư.” … Cả lớp ngồi yên.
Tôi nói, Diễm và Minh à, nếu không có mặt trong khoá học và trong buổi tổng kết, có lẽ, mình cũng khó tin những lời chia sẻ chân thật, đẹp đẽ như thế. Mình có cảm tưởng lúc ấy dường như cả lớp muốn níu lại thời gian và mong được nghe Dana chia sẻ thêm. Tôi nhìn vào đôi mắt ướt của Minh, rồi nhìn Diễm. Cả hai lặng im nhìn tôi. Trước khi chia tay, tôi nói, có lẽ Diễm và Minh đoán được lúc nghe những lời chia sẻ ấy mình cảm thấy như thế nào và lúc này, đang ngồi đây, mình mong ước điều gì.
Có một cái gì là lạ nơi Dana mà ngay từ lúc vừa gặp đã khiến tôi chú ý. Có thể trong tôi đã sẵn có lòng quý mến dành cho thiền sinh là người Thiên Chúa giáo chăng, tôi tự hỏi. Nhưng điều tôi cảm kích sâu sắc nhất là qua lần chia sẻ, cách trình bày, giọng nói, lời lẽ chân tình, Dana đã phác hoạ trong tôi một chân dung. Tôi nghĩ, cái đẹp của con người thường do sự hài hoà ngẫu nhiên, mà cũng có thể do chính con người làm nên, nhưng nó phải là cái đẹp hài hoà giữa thân tâm và cuộc sống. Con người có thể đẹp hơn khi biết quay lại với chính mình, tỉnh thức để làm chủ được mình, nhận ra hạnh phúc chính là sự an lạc tìm thấy trong thân và tâm mình. Thiền có thể giúp con người thực hiện được điều này.
Dana đã gợi lại trong tôi hình ảnh người thiếu phụ trong tập truyện dài năm xưa. Tác giả đưa cho tôi tập bản thảo, mời tôi đọc và nói rằng anh đã mượn hình ảnh người bạn rất quý mến ấy để xây dựng nhân vật nữ trong truyện. Thật cảm động, anh đã vẻ chân dung nhân vật nữ ấy ngay trong phần mở đầu tập truyện: Cái đẹp của nàng là sự hài hoà giữa đường nét, ngôn ngữ, tâm hồn và trí óc! …
*
Một tuần sau đó, Diễm và Minh đã trở lại sinh hoạt với đạo tràng Tánh Không Sacramento. Trên khuôn mặt của Minh đã có lại nét hồn nhiên. Diễm thỉnh thoảng nhìn tôi không nói nhưng nụ cười rất tươi. Tôi vui. Từ nay chúng tôi thường gặp nhau hơn. Có một lần cùng đứng ở vườn sau, tôi cười nói:
- Minh à! Dove, con chim hoà bình yêu quý của em đang đem an lạc về lại cho em và sẽ mãi mãi ở Bên Em. Diễm và Minh có thích nghe lại bài hát tiếng Pháp ấy nữa không, Auprès de ma Blonde?

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét