Hồng Nguyên Quang
Năm 1998, sau khi về hưu, vợ chồng chúng
tôi dẫn theo hai đứa con trai về thăm quê hương, chủ ý cho chúng nó
biết Việt Nam, quê cha đất tổ như thế nào, đồng thời thăm mộ của ông nội
ở Sài gòn và mộ bà nội ở Lệ Thủy, Quảng Bình .
Sài gòn thay đổi rất
nhiều từ đường sá, nhà cửa cho đến dân cư, nhưng khi đến Huế thì khác
hẳn, Huế vẫn như xưa. Huế đang độ vào hè cho nên rất nóng, mồ hôi ướt cả
cổ áo. Vào thành nội xem xong các cung điện nhà vua, chúng tôi đi dạo
dọc theo bờ thành nội, dưới những tàng cây bóng mát có rất nhiều những
sạp hàng bán đồ kỷ niệm. Đang nhìn ngắm các món hàng, các con tôi bỗng
giật mình vì tiếng ve rộ lên nghe quá lớn. Tôi tìm một con ve đang đậu
trên cành và chỉ cho chúng nó xem:
- Chính con này kêu, không phải
chỉ một con này mà có rất nhiều con trên các cành cây chung quanh cùng
kêu lên một lượt nên mình nghe râm rang như một bản hợp tấu. Ba Mạ ngày
xưa học ở đây, nghe điệu nhạc này thường xuyên mỗi khi hè đến, các con
mới nghe lần đầu cho nên lấy làm lạ và thú vị.
Ra khỏi cửa thành Thượng Tứ, hai bên là hồ sen. Hoa sen nở đầy hồ. Các
con tôi đứng trên cầu chụp hình, tôi nghĩ trước khi rời Huế cần phải mua
một ít hạt sen Tịnh Tâm có tiếng là ngon, thơm. Dọc theo con đường
Thượng Tứ, tôi chỉ cho các con tôi xem nhà của ông bà ngoại xưa kia, gần
quán Lạc Thành.
Dòng sông Hương hiện ra trước mắt, bên trái phía xa là cầu Tràng Tiền. Chúng tôi cho xe chạy qua bên kia sông thăm lại trường cũ
.
Nhìn qua bên kia đường, phía tay phải của tôi là trường
Quốc Học, phía trái là trường Đồng Khánh. Trường Khải Định tôi học là
một nửa của trường Đồng Khánh. Trường không có gì thay đổi, cửa đóng.
Sau lưng tôi là công viên nhìn ra sông Hương, có một chút thay đổi có lẻ
là có thêm cây cối và các ghế đá.
Tại đây, nơi tấm đá được kê lên
cao đằng kia, tôi còn hình dung rõ ngày ấy Tạ Ký ngồi xổm dưới đất, đang
ngâm bài thơ của nó vừa mới làm xong, trước mặt nó là môt quyển vở học
trò, tay cầm bút chì đánh dấu những chữ nó không vừa ý. Một số anh em
ngồi quanh trước mặt Tạ Ký, Dương diên Nghị và tôi đứng phía sau để
nghe. Trước khi vào lớp, Tạ Ký nhắn lại với anh em“ khi nào sửa xong,
tao sẽ ngâm lại cho tụi bay nghe”
Bây giờ đây, đứng trước cổng
trường Đồng Khánh, tôi không có một chút cảm xúc nào, nhìn trường cũ như
nhìn một phong cảnh lạ, có lẻ tôi cho rằng đây chỉ là cái xác của
trường, còn linh hồn và sinh khí của trường đã tản mác đi các nơi xa
xôi, thỉnh thoảng tụ lại để khơi dậy niềm thương nỗi nhớ trong lòng
người đi.
Hai năm sau (2001) trở về lại, tôi cũng có tâm trạng
như cũ khi đứng trước cổng trường Phan Châu Trinh Đà Nẵng vì lẽ năm nào ở
Hoa Kỳ tôi cũng được gặp các bạn đồng nghiệp cũng như các cựu học sinh
Phan Châu Trinh trong các dịp đại hội trường, liên trường. Ngược lại khi
đứng trước cổng trường Đông Giang nay đã đổi tên Hoàng Hoa Thám, nhìn
thấy các nam nữ học sinh trong đồng phục sơ mi trắng, áo dài màu xanh da
trời đang ngồi đây đó trên các ghế đá trong sân trường, dưới bóng mát
của các cây bạc hà, tôi thật sự bồi hồi xúc động mặc dầu cơ sở nhà
trường vẫn hai dãy lầu không có gì thay đổi lắm. Duy chỉ có những cây
bạc hà mà trước đây các em học sinh đã dâm, trồng, chăm lo săn sóc lúc
bấy giờ cây chỉ cao ngang đầu gối, nay đã lớn cao đến tận mái lầu, một
chứng tích đóng góp thân thương của tập thể học sinh tôi nhìn thấy hôm
nay khiến lòng xao xuyến.
Tôi đứng đợi thật lâu để xem có ai quen vì
tôi biết hãy còn rất nhiều giáo sư và học sinh trước kia còn ở lại ,
nhưng rồi không gặp ai cả.
Ở Hoa Kỳ, thỉnh thoảng tôi mới gặp
các bạn đồng nghiệp như Nguyễn Ích Xuân, Nguyễn Bang, Võ Thị Cúc Hương,
Phan Ái Phương, Trần Bích Hà, Trần Thu Hà, Lê Thị Hồng Khanh, Nguyễn
Minh Huệ. Hôm nay đây tôi nóng lòng muốn gặp các bạn của trường Đông
Giang vì chúng tôi đã xa cách nhau 26 năm rồi .
Trở về khách
sạn, tôi cầm điện thoại muốn gọi ngay đến trường nhưng tôi vẫn cứ do dự
không biết ai sẽ bắt điện thoại, quen hay lạ vì đây là cơ hội để hứa hẹn
mở đầu cho một cuộc vui mà cũng có thể là một đánh dấu cho ngã rẽ âm
thầm đi vào quên lãng…. Chuông điện thoai reo, tôi hồi hộp, chỉ sau hồi
chuông thứ nhất đã có người cầm máy lên, tôi mừng và tự giới thiệu, lập
tức bên kia đầu giây đã có tiếng reo mừng rỡ, nghe giọng quen thuộc, tôi
nhận ra ngay là cô Nguyễn Thị Sáu, người thư ký của trường .
Thời
gian về của mấy cha con tôi, đâu đó đã có chương trình, tôi cứ nghĩ rằng
đâu có dễ dàng gì trong một ngày, một buổi các bạn bè làm sao để có thể
có cùng thuận tiện một lúc cho tôi được gặp nhưng thật không ngờ độ đâu
một giờ sau chúng tôi đều có mặt tại nhà của Mai Cư, người học trò cũ
kỳ cựu của Đông Giang và là đương kim Hiệu trưởng Đông Giang - Hoàng Hoa
Thám. Tất cả đề nghị đưa tôi đi thăm lại trường cũ. Mai Cư chở tôi bằng
xe gắn máy, tôi phải ôm chặt eo lưng của Mai Cư vì sợ bị rớt dọc đường.
Chúng tôi vào phòng Hiệu đoàn, trong đó còn hiện diện nhiều hình ảnh
sinh hoạt của trường trước bảy lăm, tôi rất cảm động và thầm cám ơn sự
trân quý tồn tại này. Mai Cư đã tặng cho tôi một Tập san Kỷ niệm 35 năm
ngày thành lập trường.
Trường thành lập từ năm 1963, phát triển
dần đến năm 1975 gồm 10 lớp Đệ Thất, 10 Đệ Lục, 10 Đệ Ngũ, 10 Đệ Tứ, 6
lớp Đệ Tam A, 6 Đệ Tam B, 1 Đệ Tam C, dự định mở thêm cho niên khóa
75-76 4 lớp đệ Nhị A, 4 Đệ Nhị B, 1 Đệ Nhị C.
Toàn bộ cơ sở nhà
trường từ trước được xây dựng bằng ngân sách của Trung ương, Bộ Giáo dục
và một phần thật đáng kể thuộc nổ lực đóng góp của Phụ huynh học sinh,
còn chính quyền địa phương thì có phần hời hợt ít quan tâm qua mấy đời
thị trưởng .
Buổi gặp gở không hẹn mà thành ngay tại nơi trường
cũ ghi nhận sự tồn tại mối thiện cảm “tuy xa mà gần” trong lòng những
ai đã một thời sinh hoạt chung dưới mái ấm Đông Giang .
Các giáo sư
cũ: Bùi Kim Lân, Mai Cư, Hồ Ngọc Thanh, Đinh Văn Đạt, Lê Thị Em, Phạm
Xuân Tú, Từ Lương Mỹ, Dương Thị Ngọc, Nguyễn Thị Lai, Lê Thị Ngọc Yến,
Bùi Văn Phát, Nguyễn Xuân Hân, Phan Thị Hòa, Võ Chi, Lê Thân, Lê Văn
Lương, Đoàn Trọng Cang, Nguyễn Phi Long, Nguyễn Thị Sáu, Đặng Ngọc Phụng
và ông cai trường Nguyễn Điểm đứng chụp hình chung với tôi trong sân
trường.
Ông Điểm cho biết sau 75 không còn làm việc trong trường
nữa, đi bán vế số dạo, chẳng may bị thương tật phải đi nạn. Ngoài ra có
một số giáo sư khác không còn đi dạy, tìm công việc khác làm ăn.
Một
bữa tiệc chia tay được tổ chức tại một quán ăn sát bờ sông Bạch Đằng Đà
Nẵng, lúc đó tôi mới biết được các giáo sư có một quỷ tương tế riêng để
giúp đỡ lẫn nhau, tôi rất mừng nhưng nhìn lại mình tự thấy xấu hổ vì
chả đóng góp được gì cho anh chị em của trường sau năm 75 thế mà bây
giờ tôi vẫn được hưởng những phút giây thân thương, ấm cúng như thế
này. Thật vô cùng cảm mến, tôi xin cám ơn tất cả mọi người và cám ơn sự
hiện hữu hai tiếng Đông Giang bên cạnh Hoàng Hoa Thám.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét