Chúng tôi xin giới thiệu đến Quý
anh chị bài SAU HÌNH HÀI THƠ của thầy Hoàng Dục -Thạc sĩ Văn Chương,
nguyên giáo viên Hoàng Hoa Thám- qua bài thơ HÀNH CA CHO NHỮNG KẺ YÊU NHAU của anh Nguyễn Văn Gia mà chúng tôi đã có dịp đăng lên trang ĐG-HHT
Đến
với thơ, người đọc luôn ở trong tình huống bị lừa một cách thú vị.
Những cú lừa văn chương ấy không làm ai bực mình hay cảm thấy bị sỉ
nhục, ngược lại, ai cũng cảm giác hạnh phúc, cảm giác sướng khoái vô
biên. Tôi đã từng sướng khoái như thế khi cảm thơ. Và dẫu đã có những
trải nghiệm, tôi vẫn bị thơ dẫn dụ vào mê cung của nó, đúng hơn tôi vẫn
thích bị phỉnh phờ một cách hồn nhiên khi đọc thơ. Không nói đâu xa, chỉ
trong khoảng khắc này, tôi đang sung sướng được bị lừa khi đọc “Hành ca
cho những kẻ yêu nhau” của Nguyễn Văn Gia.
Bài thơ “Hành ca
cho những kẻ yêu nhau”, tôi tình cờ đọc được trên blog của Huỳnh Ngọc
Chênh. Vừa chạm vào nhan đề, trong tôi dậy lên một cảm giác là lạ. Sao ở
thời buổi văn học thế giới đi vào chủ nghĩa hậu hiện đại, tác giả lại
để cho tên bài thơ vẫn nằm trong văn học trung đại như vậy. “Hành ca cho
những kẻ yêu nhau” vừa giới thiệu thể loại vừa biểu hiện đề tài thơ, có
khác gì “Cảm hoài”, “Chinh phụ ngâm”, “Cung oán ngâm”, Vũ trung tùy
bút”, “Hoa Tiên truyện”, “Truyện Kiều”… Hay “hành ca” kia là tiếng hát
của những tâm hồn lãng mạn, tiếng hát bi tráng, tiếng hát đang nghịch
phách với điệu ca khác trong trào lưu thơ Mới. Đó là “Tống biệt hành”
của Thâm Tâm, “Can trường hành” của Trần Huyền Trân, “Hành phương Nam”
của Nguyễn Bính. Tôi nghĩ không hẳn như vậy. Có lẽ cái tôi trữ tình
trong thơ “Hành ca cho những người yêu nhau” vẫn khác. Cái tôi ấy không
ẩn mình sau những hình tượng “lão”, “khách”…, không bay trên đường bay
lãng mạn của thời chiến quốc xa xưa. Cái tôi ấy đang sống vào cái thời
hiện đại, một cái tôi có đủ năng lực nhận thức về mình và về cộng đồng,
nhưng phải sống giả hình; một cái tôi mang hoài bão đẹp nhưng phải sống
chật chội trong mấy đấu chữ nghĩa khô khốc. Nếu là cái tôi ấy, sao là
“hành ca” mà lại hành ca “cho những người yêu nhau” nữa. Đây là một bài
thơ trữ tình tình yêu ? Tình yêu thường là điệu slow, boston, valse… sao
ở đây lại march ? Chả lẽ, tác giả giục những người yêu nhau phải quấn
quýt yêu, phải “mau với chứ, vội vàng lên với chứ” như ông hoàng thơ
tình Xuân Diệu…
Tôi cứ vướng trong nhan đề bài thơ một hồi lâu. Và khi đọc bài thơ, cái ý
nghĩ đây là bài thơ tình cũng chưa rũ bỏ được. Thậm chí, tôi có cảm
giác, bài thơ là tiếng nói của một tình nhân có những trải nghiệm đắng
cay trong tình trường. Thì đây, khi yêu nhau, người ta cùng nhau đặt
chân lên quãng đường tình, mở lối vào cái đích cuối là hạnh phúc lứa
đôi. Còn nhân vật trữ tình trong bài thơ hình như đang đối diện với sự
thực vỡ lỡ, vỡ mộng.Vì thế mà trong bài thơ cộm lên nhưng dòng thơ mang
kinh nghiệm đau thương “Dắt nhau đi rồi mà chẳng biết về đâu”. Thực ra,
khi yêu cảm xúc lãng mạn xúi giục bước chân người ta ướm trên con đường
lãng mạn, không thực. Đó là một tâm lí tình yêu. Lúc ấy người ta mê man
bước, để rồi khi tỉnh táo nhìn lại, hai con người yêu nhau hụt hẫng như
vừa bị đánh cắp niềm tin “Tay vẫn nắm tay mà niềm tin rạn vỡ”. Để rồi họ
tự trách mình sao mãi “lấp lững quanh co”, họ trách những triết gia
tình yêu làm họ “bối rối” trong “Mớ lý thuyết suông - Như chiếc áo cũ lỗi thời”.
Để rồi khi, người tình nhân kia đếm tuổi thời gian mới giật mình thảng
thốt nhận ra thời gian không đứng đợi, nỗi đau tình yêu vẫn còn đó bằng
cảm nghiệm da diết :
Đừng để hạnh phúc cuối đường
Chỉ là
Ảo ảnh lừa nhau.
Nhưng rồi tôi bỗng hoài nghi chính tôi nên đọc lại bài thơ. Đúng
là tôi đã bị cái nhan đề làm lạc hướng thụ cảm. Tôi bị lặm chữ, lặm vào
cái cái định kiến của chính tôi. Tôi biết đâu rằng thơ ca lắm lúc là một
trò chơi ngôn từ. Ngôn từ trong tay nhà thơ là con xúc xắc. Nhà thơ cho
người đọc thấy một mặt qua hình thức ngữ ngôn của thơ, còn năm mặt kia
khuất lấp, bàng bạc trong cái mặt thấy được đó. Nhận ra điều này tôi mới
hiểu Nguyễn Văn Gia đã tạo được một cú lừa rất có duyên. Hóa ra, những
người yêu nhau trong nhan đề bài thơ, dọc theo hình hài bài thơ ấy,
không thể hiểu bó hẹp trong tình yêu đôi lứa. Chữ “yêu” ở đây hiểu theo
nghĩa rộng, đó có thể là tình yêu của con người dành cho một sự vật hiện
tượng, lí thuyết, một trào lưu, một chủ nghĩa,… “Yêu” cũng có nghĩa là
đi chung với nhau trên một con đường để đến một cái đích nào đó.
Chính vì vậy, Nguyễn Văn Gia mở bài thơ bằng quy luật của hoạt động đi:
Lẽ thường
Ra đi là phải biết đi đâu
Không thể trù trừ giữa ngã ba ngã bảy
Không thể bắt mây kia ngừng trôi
Và sông kia ngừng chảy
Để vẽ hươu vẽ vượn một chân trời
Dắt nhau đi rồi mà chẳng biết về đâu
Săm soi mãi con đường không có thực.
Nguyễn Tuân từng nói một cách dí dỏm : “Đi là có nơi nào để đến”.
Đúng như thế không ai đi mà cứ bâng khuâng : “Ta đi nhưng biết về đâu
chứ?” (Nguyễn Bính). Chỉ những kẻ ảo tưởng về năng lực chính mình, họ
mới tin rằng có thể bắt thời gian ngừng lại để vẽ ra hình ảnh cái đích
đến theo trí tưởng tượng nhằm tự huyễn hoặc chính họ và mọi người đó là
cái đích đến có thực, rất thực. Nhưng thực ra, đó cũng chỉ là “vẽ hươu
vẽ vượn một chân trời”. Một người ra đi “là phải biết đi đâu”, hai người
ra đi, nhiều người ra đi điều đó càng hệ trọng hơn, nhất là khi đã “dắt
nhau đi rồi”. Chân đã ướm trên con đường thời gian, nhưng trí nghĩ cứ
“săm soi mãi con đường không có thực” đó là bi kịch, là một đại nạn.
Và tệ hại hơn, khi nhiều người đi trên một con đường, chân có vẻ
chung lối nhưng tâm hồn không hòa hợp, ngoảnh mặt lại với nhau. Cái đáng
sợ nhất là “Tay vẫn nắm tay mà niềm tin rạn vỡ - Con đường xa chưa thấy
một bến bờ”. Trong đời thực, biết bao con người miệng thơn thớt yêu
thương, yêu người, nhưng những lời có cánh ấy chỉ là ngôn từ bôi trơn
cho một lý tưởng đã hao mòn, cho một tình yêu đã cạn. Người ta yêu
nhau, người ta đi với nhau như những kẻ mộng du. Còn khi tỉnh ra, mới
rơi vào trạng thái bối rối, trách các lão triết gia lôi họ vào mê cũng
triết lí đã lỗi thời, nhưng rêu rao mãi đó là chân lí.
Có phải mấy lão triết gia chết tiệt kia
Vẫn còn làm ta bối rối ?
Mớ lí thuyết suông
Như chiếc áo cũ lỗi thời.
Thế nhưng, họ trách để mà trách, hỏi để mà hỏi. Bởi họ đang tự
huyễn hoặc mình vì họ quá tự cao, họ đang “lẽo đẽo theo cái thằng lẹo
lưỡi”, nên không tự biết chính họ đang “độc hành”, họ đang quay về cái
thời tiền sử, cái nơi chỉ còn là hoài niệm xa xăm của nhân loại. Trong
khi đó trên hành tinh này, những người “yêu nhau” đang đi trên một con
đường khác, con đường đi tới. Người ta đi trên con đường chung, ai ai
cũng ngẩng mặt hân hoan, còn họ mãi cúi mặt “lầm lũi” :
Con đường ai ai cũng đi tới
Sao ta lại quay lui
Bởi cái ghế cản đường
Hay của nả phù vân cản lối ?
Dòng đời chung mỗi lúc một đông vui
Đường thiên lý
Ai cũng ngại độc hành lầm lủi
Như thế, trong cái nhìn của Nguyễn Văn Gia, những kẻ gọi là yêu
nhau ấy đã đi không đúng quy luật. Trong lòng họ, tình cảm dành cho nhau
đang “Nghễnh ngãng như kèo đục vênh”. Đó là một thực trạng não lòng.
Yêu nhau như thế” bằng mười phụ nhau”. Bởi xét cho cùng, tình yêu làm
con người đẹp hơn, hạnh phúc hơn, chứ không phải đẩy nhau vào sự vô vọng
:
Để mà chờ
Để mà đợi
Đừng để hạnh phúc cuối đường
Chỉ là
Ảo ảnh lừa nhau.
Ai sống trăm năm để đợi để chờ… một ảo ảnh. Giọng thơ chân thành, đầy xót xa và rất nhân văn.
Thầy Hoàng Dục
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét