Thứ Sáu, 8 tháng 2, 2013

PHIẾM LUẬN VỀ RẮN tiếp theo lần 3 và hết



Ðọc mãi những chuyện rắn trong khoa học và huyền thoại cũng phát chán phải không qúi vị? Ðể thay đổi không khí cũng như "văn phong" và chứng tỏ sự oai lực của giống mãng xà, chắc không gì bằng kể lại mẩu chuyện rắn trong Thánh Kinh. Câu chuyện này rất nổi tiếng, không những vì đã vượt thời gian và không gian đến nỗi mọi người Ðông Tây đều biết, mà còn liên quan mật thiết đến nguồn gốc loài người.

Chuyện kể rằng khi Thiên Chúa sáng tạo xong trời đất muôn vật, thấy vũ trụ tuy "trăm hoa đua nở" nhưng vẫn thiếu sinh khi nên dùng đất - ôi! cát bụi lại trở về với cát bụi - để nắn thành người đàn ông, đặt tên là Adam. Thiên Chúa cho Adam ở trong vườn Ðịa Ðàng là nơi đầy hoa thơm cỏ lạ, không chút ưu phiền. Tuy nhiên, tuy được cư ngụ tại một nơi không bao giờ sợ bị "lay off" cũng chẳng phải lo về những chuyện trần tục như "trả bills", "bảo hiểm", "thị trường chứng khoán... trồi sụt" v.v..., nhưng ông tổ Adam thân mến của chúng ta vẫn cảm thấy "buồn man mác, nhớ bâng khuâng" vì thiếu một bóng hồng thân yêu. Một hôm, sau khi ca đi ca lại mãi bản vọng cổ "hỡi ơi nhìn trời hiu quạnh, nhìn trăng, trăng lạnh, nhìn rốn...", cụ tổ Adam chịu đời không thấu bèn than thở cùng Thiên Chúa về cuộc sống cô đơn, thiếu... ướt át của mình.
Thiên Chúa thông cảm cảnh "phòng không chiếc bóng" của cụ Tổ nên bẻ một khúc xương sườn của ông Adam - với hàm ý rằng nếu ngươi muốn "liên hệ" với phái đẹp, ta sẽ cho ngay, nhưng trước hết ngươi phải tập làm quen với mùi đau khổ cái đã - để tạo thành một người đàn bà, đặt tên là Eva. Thiên Chúa cho phép hai người được tự do đi lại, "vacation" 24/24 và được phép ăn bất cứ của ngon vật lạ nào trong vười Ðịa Ðàng, ngoại trừ một loại trái cây gọi là Trái Cấm. Kể từ khi có người đẹp Eva bầu bạn, cuộc đời ngài Adam lên hương và phấn khởi thấy rõ. Chỉ có mỗi một việc tận hưởng "tứ khoái". Không phải "cầy" hai ba "jobs" để n àng “shopping” thì không khoái tỉ sao được! Hai ông bà tà tà cùng nhau "kề vai cọ... vế", an hưởng hạnh phúc. Cho tới một ngày kia, có một con rắn do qủi Satan là kẻ thù của Thiên Chúa biến hình, cám giỗ và xúi bà Eva cứ việc bẻ trái cấm mà ăn, vì ai ăn được trái cấm sẽ được trẻ đẹp mãi mãi, không bao giờ cần viếng thăm thẩm mỹ viện, và nhất là còn có nhiều quyền lực hơn cả Thiên Chúa!
Bà Eva nghe lời ngon ngọt của qủi dữ bèn năn nỉ ỉ ôi cùng ông Adam để bẻ Trái Cấm. Lúc đầu ông Adam còn nhớ đến lời răn của Chúa nên nhất định từ chối. Về sau, bị bà Eva dùng chiến thuật "nước chảy đá món, trường kỳ kháng chiến", và nhất trúng độc chiêu độc chiêu "bế môn tỏa cảng", ông Adam chịu đời không thấu, đành bẻ Trái Cấm để hai người cùng ăn. Bà Eva vì muốn mau được "trường kỳ" trẻ đẹp và có nhiều quyên lực hơn Thiên Chúa nên "ngốn" hết rất nhanh. Nhưng đúng lúc ông Adam đang nuốt trái cấm còn mắc ngang cổ, bỗng Thiên Chúa hiện ra trách phạt hai người đã không theo lời răn. Vì vậy, các đấng "đực rựa" con cháu của cụ tổ Adam ngày nay còn mang một "cục nợ" chình ình tại cần cổ được gọi là "trái táo Adam" (Adam's Apple). Từ đó, cả ông Adam lẫn bà Eva bị trục xuất khỏi vườn Ðịa Ðàng, đầy xuống trần gian sinh con đẻ cái tạo thành nhân loại đầy khổ ải ngày nay để tiếp tục trả “nợ tổ tông”.

Qua câu chuyện lý thú về thủy tổ loài người kể trên, tác giả mạn phép có một đôi lời bàn theo kiểu Mao Tôn Cương. Trước nhất, ngay từ th ơời tạo thiên lập địa, chúng ta thấy ông tổ Adam của giới đàn ông con trai có cuộc sống "đầy đủ tiện nghi", không phải đi làm, cắt cỏ, cào lá, sửa xe v.v... tối ngày chỉ ăn chơi phè phỡn r ôồi xách vợt đi dợt Tennis trong vườn Ðịa Ðàng. Tuy sung sướng là vậy nhưng cụ Adam vẫn cảm thấy "đời vắng em rồi, dzui mí ai?" Vì vậy, đến ngày nay, nếu có vị tu mi nam tử nào có chết dở sống dở vì các đấng liền bà con gái tưởng cũng là chuyện thường vì chỉ theo gương ông Tổ.
Thứ hai, con rắn thật là khôn ngoan, qủi quyệt và rất rành "tâm lý". Biết được các đấng trượng phu hào hoa phong... thấp có thể bách chiến bách thắng nhưng khó qua được cửa ải "quần hồng" nên rắn ta đã khôn ngoan "lòn cửa hậu". Rắn biết "chăm phần chăm" rằng một khi tướng bà đã "OK", mọi chuyện sẽ chắc ăn như cua gạch. Cho dù tướng ông có phản đối đi nữa, nhưng khi đã lọt vào... đồ bát quái của nữ tướng, dù có cứng rắn đến đâu cũng sẽ bị nhũn như con... chi chi. Trong lịch sử Ðông Tây kim cổ, có thiếu gì chuyện phản ảnh qui luật "lệnh ông không bằng cồng bà" này. Chẳng hạn như nàng Thúy Kiều với "làn thu thủy, nét xuân sơn" đã làm đấng anh hùng Từ Hải oai dũng "râu hùm, hàm ém, mày ngài, vai năm thước rộng, thân mười thước cao" bị chết đứng. Gần đây, những câu chuyện "cửa hậu" tại Việt Nam hoặc oai lực của rồng cái biết hút xì gà Monica Lewinsky làm Tông Tông Bill Clinton xiểng niểng tại Hoa Kỳ đã hùng hồn chứng tỏ oai lực này.
Thứ ba, câu chuyện trái cấm vườn Ðịa Ðàng này cũng chứng tỏ biệt tài "ăn nhậu" của qúi bà. Mặc dù có câu "nam thực như hổ, nữ thực như miêu", nhưng lúc ăn trái cấm, bà Eva đã "nhẩm xà" phần nhiệm của mình rất nhanh. Trong lúc đó, ông Adam vẫn còn ì ạch nhai nuốt đến nỗi bị Thiên Chúa bắt gặp tại trận chưa nuốt kịp, trái cấm còn kẹt trên cổ. Báo hại cho đến ngày nay, các vị đực rựa còn được "ân hận" mang cục nợ này mà chẳng được tích sự gì!.
Có lẽ vì vai trò không đẹp của rắn trong Vườn Ðịa Ðàng nên hầu hết các sắc dân trên thế giới đều dùng rắn để ví von với những hình tượng mang ý nghĩa xấu.
Trong tiếng Pháp, "serpent" là conrRắn, nhưng người Pháp cũng dùng chữ "serpent" để chỉ loại người hiểm độc. Thí dụ như "langue de serpent" là ăn nói độc địa; "serpent caché sous fleurs" tức "rắn ẩn dưới hoa" là sự nguy hiểm nằm dưới bề ngoài đẹp đẽ không ngờ "réchauffer un serpent dans son sein" tức "ủ rắn trong ngực" là nuôi họa vào thân hay nuôi ong tay áo. Trong văn học Pháp cũng có giai thoại hai văn hào nổi tiếng có điều xích mích. Một ông làm bài thơ kể chuyện ông kia đi chơi núi bị rắn độc cắn, nhưng kỳ lạ thay không hề hấn gì, mà ngược lại, con rắn lại bị chết!
Người Anh cũng có nhiều câu nói không đẹp về rắn. Thí dụ như ""snake in the grass" đồng nghĩa với "serpent sous fleurs"; "speak with forked tongue" là miệng lưỡi ăn nói độc địa như lưỡi rắn; "lower than a snake's belly" để chỉ loại người đê tiện, hèn hạ, xảo trá, hèn hạ như không còn gì thấp hơn. Những câu nói này đều rất đúng nếuđem áp dụng vào đám đầu xỏ Việt Cộng.
Người Trung Hoa khi gặp nhau cũng thường chào hỏi bằng câu "Vô xà hồ?" nghĩa là không gặp chuyển chẳng lành gì chứ?
Sau khi đọc những chuyện “rắn rết cùng với ông Adam và bà Eva, chắc qúi độc giả cảm thấy cũng có đôi phần lý thú? Vậy "thừa thắng xông lên" và cũng để được tiếng vui xuân vẫn không quên chiến sĩ, nay xin "phiếm" thêm về phái nữ cho đúng câu "kính nữ đắc thọ".
Vào dịp đầu năm, các bà các cô thường có "thuần phong mỹ tục" đi xin xâm, hái lộc, coi bói, xem tướng v.v... nên thiết tưởng nên kể vài mẫu chuyện đến tướng số của phái nữ có liên quan tới rắn. Chả là ngày xửa ngày xưa, theo quan niện "nam nữ thụ thụ bất thân" nên nhiều khi cho tới khi thành gia thất, đôi trai gái vẫn chưa hề được gặp mặt nhau chứ đừng nói đến chuyện "xào khô, xào ướt" hoặc cằm tay cầm chân, bẻ giò bẻ cẳng hôn hít chùn chụt như thời vệ tinh nguyên tử bây giờ. Tuy nhiên, không phải vì vậy mà các cụ ta nhắm mắt lấy mò, vì các vị nam phụ lão ấu từ thời Hồng Bàng đã luôn luôn thực hành câu "lấy chồng xem tông, lấy vợ xem giống". Tuy nhiên, "xem" đây không phải là "vạch trần" ra mà coi như thời đại văn minh bây giờ.
Với quan niệm tam tòng tứ đức "công dung ngôn hạnh" thời xưa, sức mấy mà coi được cái... giống của qúi vị liệt nữ! Ðiều quan trọng khi cưới vợ là phải chọn được cô nào có tướng "vượng phu ích tử", tránh các vị liền bà mang tướng "thương phu trích lệ" hoặc lưỡng quyền cao là tướng sát phu v.v... Vì vậy, phải nhờ những vị chuyên rờ mu rùa "xem mặt mà bắt hình dong" theo kiểu "cái miệng làm sao, cái ngao làm vậy". Kinh nghiệm mấy ngàn năm của các đệ tử thầy Qủi Cốc về tướng số nữ giới được cô đọng thành một bài thơ tứ tuyệt không tiện "ngâm" trong lúc đầu xuân, chỉ biết trong đó có những chữ "hồng diện, trường mi, chiết yêu, trường túc" để mô tả những "quái" tướng của các vị liễu yếu đào tơ.
Rất tiếc, vào dịp đầu xuân tết nhất, dù có uống mật gấu tác giả cũng không giám công khai diễn nôm nguyên văn cũng như nguyên nghĩa... đen chùi chũi như mõm chó của bài thơ, chỉ giám lạng quạng giải thích phần nào. "Hồng diện"có nghĩa là mặt màu hồng, do dó "đào" đẹp còn được gọi là "hồng phấn mỹ nhân" hay "hồng nhan tri kỷ". "Trường mi" là lông mi dài, được mệnh danh là "mi thanh mục tú". "Chiết yêu" là lưng hay eo thon, do đó tục ngữ ta có câu "những người thắt đáy lưng ong, vừa khéo "chiều" chồng, vừa khéo nuôi con". "Trường túc" là chân dài, được đánh giá là "trường túc bất tri lao".
Nếu nghiệm ra, bài thơ tướng số nói trên đúng phóc không chỗ chê. Chúng ta hãy nhìn kỹ những mỹ nhân đông tây kim cổ, từ Cléopatra, Marie Antionette đến Tứ Ðại Mỹ Nhân hoặc các vị liền bà con gái trong các tuồng chưởng như Hân Tố Tố, Chu Chỉ Nhược, Hoàng Dung, Triệu Minh Quận Chúa v.v... cho đến tận ngày nay, phái yếu luôn luôn chú trọng tới chuyện "má hồng" (hồng diện) bằng cách tô son điểm phấn. Mục "tô lục chuốt hồng" này còn lan cả đến môi đưa tới các mục "xâm", có vị còn đi quá xa "chơi" luôn phần "hình nhi hạ" nữa! Còn vụ lông mi dài "trường mi" thì khỏi phải nói! Ngoài các mục xâm, cấy, mang lông mi giả, có vị còn xài thuốc "thoa đâu mọc đó. Eo thon "chiết yêu" có lẽ được các vị nữ lưu chú ý nhất cùng với mục "ngực nở", vì vậy mới có những chuyện nhịn ăn, hút dầu hút mỡ để vòng số 2 nhỏ đi được vài "inches". Riêng vụ chân dài "trường túc" rất quan trọng đối với các bà các cô Giao Chỉ tương đối "ngắn đòn", vì vậy những giầy cao gót cỡ 10 phân được các vị này nồng nhiệt chiếu cố.
Ðến đây, thế nào cũng có một số qúi vị độc giả thân mến lên tiếng trách móc rằng cái "vốn trời cho" của qúi vị liền bà con gái có liên quan gì đây đến chủ đề rắn mà tác giả khai thác kỹ đến như vậy? Qúi vị khoan nóng tính, hãy bình tĩnh rót ly trà, nhâm nhi miếng mứt để coi "hồi sau sẽ tiếp". Chẳng lẽ với 4,000 năm văn hiến, số mạng các bà các cô là sinh vật quan trọng nhất trên quả địa cầu chỉ bao gồm trong 4 câu thơ... ngắn ngủn như vậy, phái yếu sẽ chẳng hài lòng.
Thật ra, các cụ ta không những chỉ căn cứ vào bài thơ trên mà còn xem kỹ tướng ăn, tướng ngồi, tướng đứng, tướng đi để chọn con dâu tương lai. Một trong những "quái tướng" được các cụ để ý là tướng đi "vặn mình xà" hay gọi tắt là "xà hành". Tướng đi độc đáo này chỉ có những bà những cô "chiết yêu, trường túc" mới đủ công lực để trình diễn. Tác giả vì không được hân hạnh thuộc giới "quần vận yếm mang" nên khó bề diễn tỏa. Tuy nhiên, qúi vị hãy để trí tưởng tượng làm việc, hình dung khúc mình "giây" của con rắn lúc di chuyển, thân hình đong đưa, khi sang đông, lúc về tây, lên thác xuống ghềnh, trông thật uyển chuyển và mềm mại, thật "đã con mắt" phải không qúi vị? Nay nếu lại có cả một tòa thiên nhiên "dầy dầy sẵn đúc" đặt trên cái "foundation" ẹo qua ẹo lại đó, thật là hết xảy, không bút mực nào tả xiết! Muốn biết thêm chi tiết về thế đi hào hứng "vặn mình xà" này, cứ tìm hỏi các đấng đực rựa dạo trước thường đóng đô rửa mắt tại Brodard hay Givral đường Tự Do hoặc Nguyễn Huệ của thủ đô Sài Gòn xa xưa sẽ rõ.
Sang qua mặt y dược, người Á đông đã dùng một số loài rắn như cạp nong (rắn mai gầm) (Bungarus fasciatus Schneider ), rắn hổ (Elapidae) rắn cạp nia (rắn mai gầm bạc) v.v..làm thuốc từ lâu. Người Việt Nam ta thường quan niệm rắn càng độc lại càng “nên thuốc”, tương tự như “càng đẹp càng độc” hay “hồng nhan họa thủy” khi luận về liền bà con gái!
Thịt rắn chứa nhiều protein, acid amin, thường dùng dưới dạng ngâm rượu thuốc gồm 1 bộ 3 con gọi là tam xà (1 hổ mang, 1 cạp nong, 1 rắn ráo), hoặc bộ 5 con gọi là ngũ xà (1 hổ mang, 1 cạp nong, 1 cạp nia, 2 rắn ráo). Cũng có thể làm thành dạng viên chữa đau nhức khớp xương, tê bại, nhọt độc. Nọc rắn rất độc do có các enzym và protein độc, thường được dùng dưới dạng thuốc chích, thuốc mỡ chữa tê thấp, giảm đau cho bệnh nhân ung thư, hạn chế phát triển khối u. Mật rắn chứa các loại acid mật chữa phong thấp, khớp xương, đau lưng, sốt kinh giản ở trẻ em, ho, hen suyễn, dùng dưới dạng siro, rượu thuốc Xác rắn (xà thoái) chữa động kinh, co giật ở trẻ em, đau cổ họng, ghẻ lở. Dùng 6-12g một ngày, dưới dạng thuốc sắc hay sao vàng tán bột uống, ngâm cồn bôi ngoài. Mỡ rắn được dùng để chữa phỏng lửa.
Qua tới phần tướng số để lấy hên đầu năm, người sinh vào những năm 1917, 1929, 1941, 1953, 1965, 1977, 1989, 2001 người tuổi rắn (Tỵ).
Nói chung người tuổi Tỵ ưa thích hài hước, song cũng có trường hợp ngoại lệ. Một số người lãnh đạm, lạnh lùng, một số khác lại thường trêu đùa, chế giễu người khác, nhưng khi gặp lúc nguy cấp họ có thể hâm nóng bầu không khí bằng cách pha trò vui vẻ, ngay cả khi họ chịu áp lực nặng nề cũng chẳng chút hốt hoảng.
Người sinh năm Tỵ có thể trở thành nhà triết học, thần học, nhà chính trị và cũng có thể là một nhà tư tưởng sâu sắc. Họ là người bí ẩn nhất trong số mười hai con giáp và có trí tuệ đặc biệt bẩm sinh. Người tuổi Tỵ nho nhã, lịch sự, rất thích đọc sách nghe nhạc, thích ăn ngon và xem kịch. Những cô gái xinh đẹp nhất, nổi bật nhất, các chàng trai cá tính mạnh mẽ thường sinh vào năm Tỵ, cho nên nếu bạn sinh năm Tỵ, chắc hẳn bạn sẽ có một vận mệnh tốt đẹp.
Nhìn chung, nữ giới tuổi Tỵ vốn là một mỹ nữ. Cô tự tin, ung dung và thong thả. Họ yêu thích thời trang, ăn mặc đúng mốt. nhưng không mấy quan tâm đến vấn đề bình đẳng nam nữ cô còn hiền lương, thẳng thắn, trong sáng, thuần khiết, lễ phép. Nam giới tuổi Tỵ thường hướng tới cuộc tình cháy bỏng, mãnh liệt. Vì vậy, trong suốt cuộc đời, họ luôn được phái nữ vây quanh, là một mẫu phong lưu điển hình.
Về sức khỏe, người tuổi Tỵ dễ bị rơi vào căng thẳng khi cuộc sống của họ không theo đúng thứ tự. Họ thích một cuộc sống bình yên, họ chọn sự yên tĩnh chứ không chọn sự náo nhiệt và thích loại công việc dễ xử lý hơn là loại công việc bận rộn.
Về Sự nghiệp, người sinh năm Tỵ rất giàu tính sáng tạo và làm việc chăm chỉ vô cùng. Họ đặc biệt giỏi về giải quyết vấn đề và tự hạn định thời gian cho mình rất chặt chẽ. Họ cũng có thể trở nên quyến rũ và mê hoặc để thu hút mọi người quanh họ.
Sang mặt tình duyên những người tuổi Tỵ là người chịu trách nhiệm trong các mối quan hệ và họ sẽ là người quyết định xem có nên tiếp tục mối quan hệ đó hay không. Một khi đã lựa chọn được người bạn đời, họ sẽ không ngại công khai điều đó. Người bạn đời của họ sẽ giống như một phần thưởng mà họ giành được sau bao lâu mong ước, họ trở nên ghen tuông và thậm chí là bị ám ảnh khi họ bảo vệ người ấy. Quan trọng là không bao giờ được phản bội người tuổi Tỵ, vì một con rắn bị phản bội sẽ trả thù rất ghê gớm.
Tuổi Tỵ hạp với tuổi Dậu, Sửu, nhưng xung khắc với tuổi Dần, Thân và Hợi
Ngoài ra, sách "Tử Vi Ðẩu Số" do Qủy Cốc Tử sáng tác từ thời cụ Bành Tổ cũng có khá nhiều lời bàn ... Mao Tôn Cương rất lý thú về vận mạng của những người mang cốt rắn. Liền bà con gái tuổi Tỵ thường rất đẹp, khôn ngoan lanh lợi, hấp dẫn như Marilyn Monroe hay ít ra cũng "xexy" nhu Monica Lewinsky! Các nàng này ưa thích thời trang, ăn diện rất "hiện đại" và đúng "mode". Tuy nhiên, loại phụ nữ "rắn" này lại thích cuộc sống trong tổ ấm gia đình và có máu ghen khủng khiếp khiến Hoạn Thư cũng phải chạy mặt! Các chàng tốt số vớ được cô vợ tuổi Tỵ cần đề cao cảnh giác, nếu lạng quạng với đào nhí hay thích mục bia ôm sẽ có ngày bị hổ mang ... bành mổ thác hoặc biến thành bà con với anh chàng Bobbit chẳng mấy hồi! Liền ông con trai tuổi Tỵ cũng rất quyến rũ, chải chuốt theo kiểu "mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bảo". Phái nữ sa vào tay loại "lady killer" này cần "thủ" kín, nếu sơ ý cởi mở sẽ bị "mổ" tan tác!
Sách "Giải Ðiềm Ðoán Mộng" cũng nói "duy hùng duy bi, nam tử chi tường; duy hủy duy xà, nữ tử chi tường", nghĩa là các bà có mang nằm chiêm bao thấy gấu là điềm sinh con trai, thấy rắn l à dấu hiệu sinh gái. Vì vậy, trong truyện "Nhị Ðộ Mai" (Hoa Mai Hai Lần Nở) mới có câu thơ:
Hiếm hoi mới được mộng xà
Vân Tiên là gái, mặt hoa khuynh thành"
Ngược lại, nằm mơ thấy hoa lan lại sinh con trai như trong thơ "Bần Nữ Thán" (Gái Nghèo Than Thân) nói về chuyện lân gia hàng xóm sinh con đẻ cái:
Kìa như động bích lân gia
Kẻ đà bốc phượng, người đà mộng lan"

Sau khi du lịch vòng quanh thế giới để xem rắn, mời qúi vị trở về xứ Giao Chỉ "ta về ta tắm ao ta" để nghe chuyện rắn "quê hương". Chẳng nơi nào đẹp và "nhiều chuyện" bằng nơi chôn nhau cắt rốn phải không qúi vị? Trong văn chương Việt Nam, có nhiều câu tục ngữ ca dao cùng huyền thoại hay ho liên quan tới rắn. Trong kho tàng cổ tích dân gian có truyện Trạng Quỳnh vẽ rắn khiến vua quan Tàu phải lắc đầu thán phục. Nguyên Trạng Quỳnh được vua ta cử đi sứ sang Tàu để bàn chuyện giao hảo giữa hai nước. Vua quan Tàu muốn làm nhục sứ nước Nam nên bày ra cuộc thi vẽ, với điều kiện khi dứt ba tiếng trống, phải vẽ xong một con vật. Dĩ nhiên, vua Tàu đã chọn sẵn một họa sĩ chuyên vẽ súc vật tài giởi nhất trong nước đã tập dượt thuần thục vẽ rất nhanh một con vật. Trạng Quỳnh biết ý định thâm độc của vua Tàu, nhưng vẫn bình tĩnh coi như không. Ðến ngày thi, mỗi bên được cấp một tờ giấy, môt ngọn bút lông và một nghiên mực. Khi tiếng trống đầu tiên vừa dứt, Trạng Quỳnh đã nhúng cả mười đầu ngón tay vào nghiên mực rồi vẽ vẽ ngoằn ngoèo trên giấy trong lúc họa sỉ Tàu còn chưa vẽ được gì. Khi nộp bức tranh, vua Tàu bắt bẻ cho rằng Trạng Quỳnh vẽ chẳng ra hình thù gì cả. Ông biện bạch thưa là đã vẽ xong mười con rắn đang bò khi mới dứt một tiếng trống. Thế là vua Tàu bị đuối lý, đành phải để Trạng Quỳnh thắng cuộc thi vẽ.
Tục ngữ cũng có câu "cõng rắn cắn gà nhà" để chỉ phường Việt gian bán nước, cam tâm là đầy tớ cho ngoại bang, cúi đầu khom lưng cõng chủ về để làm hại đồng bào. Câu này rất đúng trong trường hợp bọn Việt Cộng trước đây cõng con rắn trắng Nga Sô, hiện lại cõng con rắn đỏ Trung Cộng về cắn đồng loại. Ấy vậy mà con cháu cáo Hồ ngoài miệng vẫn ngon ngọt hô hào tự do độc lập, nhưng lại chủ trương độc tài đảng trị kìm kẹp dân chúng, thật là một bọn "khẩu Phật tâm xà". Ðối với con rắn độc Cộng sản, chúng ta cần phải tiêu diệt hoặc tránh xa, không thể nghe lời dụ giỗ đường mật của chúng ca bài "giao lưu" hay "hòa hợp hòa giải" vì như Esape đã nói "nếu bạn sưởi ấm con rắn trong lòng, khi hồi sức, nó sẽ cắn bạn ngay". Bọn Việt Cộng cũng chuyên nghề "vẽ rắn thêm chân", bày vẽ nay luật này, mai lệ nọ để làm khó dễ hầu móc túi nhân dân với thủ tục "đầu tiên".Nói tóm lại, bọn Cộng Sản nguy hiểm và độc như "miệng hùm, nọc rắn", không thể khinh thường được. Ngoài tục ngữ ca dao, văn chương Việt Việt Nam còn có chuyện rắn rấy ký thú liên quan tới ông Bảng Nhãn Lê Qúi Ðôn (1726 - 1784), người xã Diên Hà, tỉnh Sơn Nam (Thái Bình ngày nay)tỉnh, con của Tiến sĩ Hình Bộ Thượng thư Lê Phú Thứ đời Dụ Tông thời chúa Trịnh Cương. Ô ng nổi tiếng là thần đồng. Lên năm tuổi học Kinh Thi, mỗi ngày thuộc cả chục dòng sách. Mười một tuổi, mỗi ngày học Sử ông thuộc tám, chín chương. Mười bốn tuổi đã thông hết Ngũ kinh, Tứ thư, Sử, Truyện. Trong một ngày có thể làm 10 bài phú, không phải nghĩ, không viết nháp. Mười tám tuổi thi Hương đậu Giải Nguyên. Hai mươi bảy tuổi thi Hội, thi Ðình đậu Tam Nguyên Bảng Nhãn. Ông để lại nhiều tác phẩm giá trị với đủ thể loại (triết, văn, sử, địa, ngôn ngữ ...kể cả khoa học nữa) nên người đời sau tôn ông là một nhà bác học.
Ông còn có tục danh là Lê Danh Phương, tự là Doãn Hậu, hiệu là Quế Ðường. khi còn nhỏ là một đứa bé tuy thông minh nhưng rất tinh nghịch, khó dậy, rắn mắt và cứng đầu cứng cổ. Tương truyền thuở nhỏ, một hôm ông đang cởi truồng tắm s ông với các bạn, bỗng gặp một quan Thượng hỏi thăm nhà. Ông liền đứng dạng chân và dang tay ra bảo quan Thượng:
- Nếu ông biết được cháu đang ra dấu chữ gì, cháu sẽ chỉ nhà cho ông. Quan Thượng cũng tha thứ cho sự nghịch ngợm của tuổi trẻ nên bỏ đi. Ông cười ầm lên và bảo với các bạn:
- Ông ấy làm quan to mà không biết chữ các bạn ơi!
Quan Thượng bực mình quay lại nói:
- Trẻ con đừng hỗn láo. Mày mới học lỏm được chữ Ðại ( ) mà đã dám đi trêu chọc người rồi.
Ông càng cười to hơn:
- Thế thì ông không biết chữ thật! Có cái chấm ở dưới nữa thì là chữ Thái ( ) chứ sao lại chữ Ðại !?
Khi quan Thượng vào nhà ông Lê Phú Thứ, mới biết cậu bé ấy là con của bạn mình. Ông kể lại câu chuyện dọc đường. Ông Thứ liền gọi con ra trách mắng và đánh đòn. Quan Thượng thấy bé Đôn thông minh nên xin tha, với điều kiện phải ứng khẩu một bài thơ tạ lỗi. Ông xin quan Thượng ra đầu đề. Quan Thượng nói:
- Cha cháu vừa nói cháu là đứa bé "rắn đầu rắn cổ", vậy cháu cứ lấy đó làm đề bài. Ông Lê Qúi Đôn ngẫm nghĩ một lát rồi đọc bài thơ "Rắn Ðầu Biếng Học” như sau:
Chẳng phải liu điu cũng giống nhà,
Rắn đầu biếng học lẽ không tha.
Thẹn đèn hổ lửa đau lòng mẹ,
Ráo mép chí quen phường láo lếu,
Lằn lưng chẳng khỏi vệt dăm ba.
Từ nay Trâu, Lỗ xin chăm học,
Kẻo hổ mang danh tiếng thế gia.

Bài thơ này không những ngụ ý xin lỗi cha mẹ về tội "rắn đầu" của mình mà mỗi câu thơ đều mang tên một loại rắn như liu điu (rắn nhỏ), hổ lửa, mai gầm, rắn ráo, thằn lằn, hổ mang v.v... Trâu là nước Trâu, quê hương của thày Mạnh Tử Lỗ là nước Lỗ, quê của "Vạn Thế Sư Biểu" Khổng Tử. Quan Thượng phải tấm tắc khen là kỳ tài! Sau khi làm bài thơ này, quả nhiên ông Lê Qúi Ðôn giữ đúng lời hứa, chăm chỉ học hành, thi đỗ Bảng Nhãn, làm quan nhất phẩm triều đình. Ông còn để lại nhiều áng văn chương và bộ sử rất giá trị.
Ngoài chuyện văn chương thi phú của ông Bảng Nhãn Lê Qúi Ðôn có liên quan tới rắn, lịch sử nước ta còn có một huyền thoại về rắn dính dáng tới đệ nhất khai quốc công thần Nguyễn Trãi đời nhà Lê. Ông Nguyễn Trãi thi đỗ Tiến Sĩ vào năm 1400, là con của Bảng Nhãn Nguyễn Phi Khanh. Khi cha bị giặc Minh bắt giải về Kim Lăng, ông theo cha lên tận ải Nam Quan không chịu trở về. Ông Phi Khanh bảo con:"Con phải về nhà lo việc trả thù cho cha, rửa thẹn cho nước, chứ đi theo khóc lóc mà làm gì?" Nghe lời cha, ông Nguyễn Trãi trở về, ngày đêm lo việc trả thù nhà, nợ nước. Gặp lúc Bình Ðịnh Vương Lê Lợi đem quân về đóng ở Lỗi Giang thuộc vùng Thanh Hóa, Nghệ An, ông vào yết kiến và được dùng làm quan Tham Mưu. Về sau, ông Nguyễn Trãi giúp vua Lê lập được nhiều công lớn trong việc đánh đuổi giặc Minh. Chính ông đã bày mưu dùng mỡ viết trên lá cây hàng chữ "Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần, Lê Lai vi tướng" (Lê Lợi là vua, Nguyễn Trãi là quan, Lê Lai là tướng) rồi để kiến ăn, đục thành chữ. Ông cho thả những lá cây này theo dòng nước chảy tới chỗ đông dân cư. Dân chúng thấy được những lá cây có hàng chữ này, nghĩ đây là điềm trời báo trước nên tin tưởng và nô nức theo Bình Ðịnh Vương rất đông. Khi dẹp xong quân xâm lăng dành lại nền độc lập cho xứ sở, ông Nguyễn Trãi làm bài "Bình Ngô Ðại Cáo" là một áng văn chương tuyệt tác để tuyên cáo cho thiên hạ được rõ về chiến công của vua Lê. Ðến khi về già, ông Nguyễn Trãi cáo quan về trí sĩ tại Côn Sơn thuộc vùng Chí Linh, Thanh Hóa, lấy biệt hiệu là Ức Trai để hưởng thú thanh nhàn. Tục truyền một hôm ông làm vườn, chẳng may lưỡi cuốc chém phải một ổ rắn, giết chết bầy rắn con, chỉ còn rắn mẹ bị thương chạy mất. Ðêm đó khi Ức Trai tiên sinh ngồi đọc sách tại thư phòng, bỗng có một giọt máu từ trên xà nhà nhỏ xuống trúng vào chữ "Ðại" (có nghĩa là "đời" hay "thế hệ"). Vết máu thấm qua 3 trang giấy. Ông Nguyễn Trãi ngước nhìn lên, thấy một con rắn cụt đuôi còn vấy máu từ trên xà nhà phóng mình ra ngoài chạy mất. Cụ tưởng rằng đây chỉ là một chuyện ngẫu nhiên nên chẳng để ý. Mấy hôm sau có một cô bán chiếu rất xinh đẹp đi ngang mời cụ mua chiếu. Thấy cô hàng có duyên, cụ liền ứng khẩu bài thơ có ý trêu chọc:
“Ả ở nơi nào bán chiếu gon?
Chẳng hay chiếu ấy hết hay còn?
Xuân xanh nay được bao nhiêu tuổi?
Ðã có chồng chưa? Ðược mấy con?"

Cụ Nguyễn Trãi lúc đó là một vị quan lớn, dù đã trí sĩ, nhưng thân phận rất cao, nên bài thơ có tính cách bỡn cợt và hơi trịch thượng. Không ngờ gặp phải cô hàng chiếu tên Nguyễn Thị Lộ đanh đá cũng chẳng vừa gì. Thị Lộ bèn trả lời bằng cách ứng khẩu một bài thơ họa nguyên vận như sau:
“Tôi ở Tây Hồ bán chiếu gon,
Cớ sao ông hỏi hết hay còn?
Xuân xanh mới độ trăng tròn lẻ,
Chồng còn chưa có, hỏi chi con?"

Câu cuối của bài thơ tuy ngụ ý cô hàng chưa có chồng nên hỏi chi đến chuyên con cái, nhưng cũng có ý trả đũa sự khinh miệt của cụ Nguyễn, vì "hỏi chi con" còn hàm ý coi cụ Nguyễn như "con", "hỏi làm chi vậy hả con?" Cụ Nguyễn thấy cô hàng chiếu vừa xinh đẹp, lại có tài thi phú mẫn tiệp nên sau này cưới về làm nàng hầu. Sử chép vào tháng bảy năm Nhâm Tuất (1442), nhân dịp đi duyệt binh ở Chí Linh, vua Lê Thái Tông ghé Côn Sơn thăm lão thần Nguyễn Trãi. Nhà vua thấy Thị Lộ có tài sắc nên truyền chỉ bắt nàng đi theo hầu. Chẳng may trên đường về khi tới huyện Gia Ðịnh thuộc tỉnh Bắc Ninh thì vua băng hà. Triều đình đổ tội cho Thị Lộ giết vua, ghép cho Nguyễn Trãi tội âm mưu rồi xử "chu di tam tộc". Sau này, có người cho rằng Thị Lộ chính là con rắn mẹ biến hình để trả thù xưa. Giọt máu nhỏ vào chữ Ðại thấm qua ba trang giấy ngụ ý báo trước món nợ sẽ phải trả bằng máu của ba đời giòng họ Nguyễn.
Mãi đến 22 năm sau, vua Lê Thánh Tông xét lại vụ án vì vợ nhà vua tên là Nguyễn Thị Hằng là cháu bốn đời của bà Châu Thị, vợ cả của ông Nguyễn Trãi. Vua thấy nhiều điều oan ức nên truyền hủy bỏ bản án trước, phục chức cho ông Nguyễn Trãi. Có người cho rằng đại thần Lê Sát vì thấy ông Nguyễn Trãi được vua Lê Thái Tổ trọng vọng nên sinh lòng đố kỵ, lợi dụng cơ hội để sát hại công thần. Ðó là vụ án lịch sử Lệ Chi Viên.
Kể xong một số truyện rắn trong dã sử, tới đây tác giả thấy nên đổi đề tài, xoay qua những chuyện cổ tích. Theo các ông bà thuở xưa, rắn có thể tu luyện thành tinh và lột da sống đời. Những "mãng xà tinh" này đều có viên ngọc trong đầu gọi là ngọc rắn, nếu người nào có viên ngọc này sẽ có thể nghe được tiếng nói của loài vật. Ngày xưa, có một anh học trò nghèo tên Công Dã Tràng vì cứu được một gia đình rắn nên được rắn chúa trả ơn bằng cách nhả cho môt viên ngọc. Một hôm, Dã Tràng ngậi viên ngọc rắn trong miệng đi vào rừng, chợt nghe bầy kiến xôn xao bảo nhau phải dời tổ lên cành cây cao vì trong vòng ba ngày sẽ có mưa lụt lớn. Nghe được tin này, Dã Tràng bèn tức tốc báo cho quan huyện sở tại để ra thông tri cho dân chúng chuẩn bị tránh nạn hồng thủy. Quả nhiên ba ngày sau trời đổ mưa tầm tã là vỡ đê gây lụt lớn. Nhưng dân cư trong vùng không bị thiệt hại vì đã đề phòng trước.
Quan huyện tâu với triều đình vì Dã Tràng có ngọc rắn nghe được tiếng loài vật nên đã biết truớc có nạn lụt. Nhà vua rất thích, cho với Dã Tràng vào cung, ban cho một chức quan nhỏ để có thể cùng Dã Tràng du ngoạn đó đây, cùng nghe tiếng loài vật. Môt hôm, vua ngự thuyền rồng cùng Dã Tràng ra biển nghe tiếng cá. Chợt nhà vua nghe thấy một cặp cá vừa thong dong bơi lội, vừa thân mật trò chuyện với nhau. Thích quá, vua há miệng ra cười khiến viên ngọc rắn rơi xuống biển. Dã Tràng tiếc ngọc, nhảy xuống biển mò nên bị chết đuối. Tuy đã chết nhưng Dã Tràng vẫn muốn tìm viên ngọc nên biến thành con dã tràng là một loài cua nhỏ, hàng ngày bò lên bãi biển lấy cát mong lấp biển nhưng vẫn không bao giờ tìm lại được viên ngọc. Vì vậy, người đời thường ví những ai làm những việc không thể thực hiện được la "uổng công đã tràng". Trong dân gian cũng có câu:
"Dã Tràng xe cát biển Ðông,
Nhọc mình mà chẳng nên công cán gì"

Tưởng cũng nên nói bên Tàu cũng có khá nhiều chuyện rắn liên quan. Thí dụ như chuyện Lưu Bang chém rắn. Nguyên dưới triều bạo chúa Tần Thủy Hoàng, Lưu Bang là đình trưởng tại huyện Phong Bái. Một hôm quan huyện sai Lưu Bang dẫn một toán dân phu đi xây thành tại Ly Sơn, tất cả bàn nhau bỏ trốn vì công việc quá nặng nhọc, sớm muộn gì cũng sẽ chết. Ði đến gần hẻm núi Mang Ðãng, bỗng gặp một con rắn trắng cực lớn nằm cản ngang đường. Mọi người đều nhốn nháo sợ hãi, riêng Lưu Bang vẫn điềm nhiên nói: "Ðại trượng phu không vì trở ngại mà lùi bước". Nói xong liền cầm kiếm chém con rắn đứt làm hai, giúp mọi người thoát nạn.
Sau này, khi cùng Hạng Vũ diệt xong nhà Tần, Lưu Bang tuy được phong làm Hán Vương, nhưng vì Hạng Võ nghe lời quân sư Phạm Tăng, muốn diệt trừ hậu hoạn nên bị đưa đi trấn nhậm vùng Quan Trung là nơi địa thế vô cùng hiểm trở, ra vào chỉ có một đường lát bằng gỗ dài, chừng 300 dậm gọi là Sạn đạo. Tuy bị đày vào nơi hiểm địa, Lưu Bang cùng với quân sư Trương Lương và Nguyên Soái Hàn Tín giốc chí chiêu binh mãi mã để chờ ngày tiêu diệt Sở Bá Vương Hạng Võ. Khi lực lượng đã mạnh, Hàn Tín dùng kế nghi binh "Minh tu Sạn đạo, ám độ Trần Thương", giả bộ cho quân sửa sang lại Sạn đạo, nhưng kỳ thực lại cho quân lẻn qua hẻm núi Trần Thương để đánh bọc hậu quân Sở.
Dọc đường, quân Hán bị một con rắn khổng lồ mắt to, sáng như hai ngọn đèn, miệng đỏ đe dọa, nhưng bị tướng Ngập Hấp chém chết. Thấy xác rắn quá lớn, mọi người đều khiếp sợ. Hàn Tìn nói: "Thời thượng cổ tại núi Côn Lôn chu vi ba vạn dậm, thế mà có con rắn lớn quấn quanh núi ấy". Câu chuyện rắn này làm chúng ta liên tưởng tới huyền thoại có con rắn cực lớn quấn quanh trái đất để nâng đỡ. Cuối cùng, khi Hán Sở tranh hùng, Lưu Bang với sự trợ giúp đắc lực của quân sư Trương Lương và Nguyên Soái Hàn Tín đã đánh bại Hạng Võ trong trận Cửu Lý Sơn khiến Hạng Võ phải tự sát tại bến Ô Giang cùng người đẹp Ngu Cơ. Do đó, điềm chém rắn ngày trước đã ứng nghiệm vào việc Lưu Bang diệt nhà Tần và Sở, mở nghiệp nhà Hán.
Trong truyện chưởng Cô Gái Ðồ Long cũng kể Trương Vô Kỵ học được nghề y của Tiết Thần Y nên sau này cứu sống được vợ của một danh sư bị "linh chi xà" cắn.
Nãy giờ nghe kể chuyện Rắn từ Ðông sang Tây, chắc qúi vị độc giả thân mến của bổn báo nếu không khát nuớc, thế nào cũng cảm thấy đói bụng. Vì vậy đã tới lúc bàn tới chuyện ăn uống liên quan tới rắn.
Tuy da số chúng ta thường coi rắn là một sinh vật đáng sợ, cần phải tránh xa, nhưng người Việt thuộc vùng Nam Kỳ Lục Tỉnh lại hay bắt rắn để làm món... nhậu! Những ai từng có dịp qua lại vùng Cần Thơ, Long Xuyên, Vĩnh Long, Sa Ðéc, Cao Lãnh... chắc khó quên những quán nhậu thịt rắn nổi tiếng, có nhiều món rất ngon, giá cả lại rất "bình dân". Tại Tây Ðô Cần Thơ có quán nhậu Vĩnh Ký nổi tiếng về món rắn và rùa. Tại Long Xuyên có quán Ba Vị vang danh không kém. Các vị đệ tử thần Lưu Linh thường có câu "nhất rắn nhì rùa" để ca tụng hai món mồi "bắt" nhất của dân làng nhậu.
Dạo còn phục vụ trong quân chủng Hải Quân, tác giả có dịp hành quân vùng Cao Lãnh, Ðồng Tháp Mười, thường thấy rắn đủ loại, kể cả trăn, được đem bán ngoài chơ Tân Châu, Hồng Ngự, An Long, Phuớc Xuyên v.v... cùng với lươn và chuột, nhất là vào mùa nước nổi. Dân vùng này nói là khi nước dâng lên ngập các cánh đồng, rắn và chuột bị ngộp nước phải bò ra khỏi hang để leo lên cây hay những gò đất cao. Lúc đó họ chỉ việc chèo xuồng dùng chĩa để đâm hay dùng dây thòng lọng bắt bỏ vào giỏ. Theo lời bàn tán của các tay nhậu nhiều kinh nghiệm thường kể trên bàn rượu, tuy loại rắn bông súng là món nhậu phổ thông nhất, nhưng ngon nhất phải kể tới thịt rắn hổ vì "rắn càng độc, thịt càng ngon" tương tự như "đàn bà càng đẹp lại càng độc"! Nói đến vùng đất miền Nam Việt Nam là nói đến rừng rậm có nhiều chim muông và thú dữ, cá tôm đầy đồng, ruộng lúa bạt ngàn... trong đó loại bò sát như rùa, rắn nhiều vô kể: rắn nước, bông súng, ri cá, rắn gáo... Rắn có nọc độc như: rắn hổ mang, hổ đất, nơi rừng rậm hoang vu là môi trường lý tưởng cho chúng sinh sống và phát triển .
Vào mùa nắng chúng ở những bụi rậm, gốc cây, gò đống ngoài đồng hoặc đào hang trú ẩn để sinh đẻ, người ta dùng thuật bắt rắn ngay được bằng tay không, dù rắn độc mấy cũng không hại được. Còn vào mùa nước lên, chúng leo lên cây để tránh nước, đây cũng là cơ hội để con người tha hồ mà bắt. Rắn quấn khoanh tròn theo nhánh cây nằm yên như bất động, người bắt rắn chỉ cần mũi chĩa phụp vào là đúng mục tiêu, rắn chỉ cựa quậy không sao thoát khỏi, con nào ngoan cố kiếm đường tẩu thì rơi xuống nước liền bị đập vào lưng nằm ngay đơ bất tỉnh, người bắt rắn để ăn đập cho chết luôn, còn người bắt rắn để bán, thường đập cho rắn bất tỉnh. Sau đó họ bắt bỏ vào bao, rắn có sức chịu đòn mạnh lắm, thấy nó phơi mình chớ không chết đâu (người ta nói nó làm bộ chết, nếu ai không biết sơ ý sẽ chết vì nó).
Rắn hổ mang là món ăn quý, ngày xưa thường dùng để đi lễ quan trên và đãi khách. Bắt rắn về, người ta cắt cổ lấy máu nó hòa với rượu uống trị bệnh phong thấp đại tài, sau đó đem đốt trên lửa rồi cạo vẩy (gọi là làm lông), mổ bụng, lấy mật có người dám nuốt sống, người ta nói mật rắn hổ cũng trị được nhiều chứng bệnh lại bổ khỏe nữa. Người ta lấy mật rắn hổ đất đem phơi khô để dành trong gia đình có ai mới vừa sinh con đem mật này mài, hay ngâm với nước cho uống sau này không bị bệnh hen xuyễn. Làm rắn xong phải bỏ đầu, bỏ đuôi vì họ cho rằng trong đó có chất độc.
Rắn có nhiều cách nấu, nhưng thông thường ở vùng quê người ta hay nấu cháo với đậu xanh ăn ngon lại bổ khỏe. Nồi cháo được bắc lên đồng thời cho rắn vào, đợi khi nước vừa sôi, họ vớt rắn ra dùng tay lột từ trên xuống, phần da và thịt rắn tróc nguyên lớp chỉ còn trơ phần xương. Xương này chặt thành từng đoạn để vào nồi nấu cháo cho ngọt nước, phần thịt xắt nhỏ thành từng miếng mỏng đem xào cho thêm nhiều gia vị càng thơm ngon, khi nồi cháo gạo và đậu xanh nhừ mới cho phần thịt, hành, tiêu vào rồi nêm lại lần nữa, nồi cháo kể như hoàn thành. Ăn cháo rắn hổ ngon không chê vào đâu được, tối ngủ thấy mình mẩy mát lạnh, sức khỏe tăng lên.
Cần nhớ khi làm rắn hổ chớ dùng thớt gỗ me để chặt rắn, người ta nói thớt me kỵ thịt rắn hổ ăn sẽ chết. Điều thứ hai khi nấu thịt rắn hổ phải nấu ngoài trời để tránh bồ hóng rớt vào nồi cháo ăn cũng chết người, đó là những điều cấm kỵ mà ông bà mình nói lại cần tránh là tốt nhất.
Đó là cách làm của người nhà quê, đơn giản mà ngon, không cầu kỳ như ở thành thị. Người ta nấu món rắn có tên “long hổ hội”, gồm một con rắn hổ mang (rắn Cạp nong càng quý) và một con mèo đen (đen tuyền) nấu với chân giò heo, thêm vài vị thuốc bắc, món này ăn tuyệt chiêu không dễ gì kiếm đ ư ợc, may ra chỉ có các đại gia Vi ệt Cộng mới c ó dịp thưởng thức!
Người ta còn có cách ăn thịt rắn công phu hơn. Có nhà bắt rắn về nuôi trong một óng tre vài lóng, một đầu để mắt, đầu kia để trống bỏ rắn vào bịt lại. Đằng mắt tre xuyên chừa một lỗ nhỏ, giã hành thun tẩm que tre để vào lỗ. Rắn sợ hành co mình lại, một tuần sau thay que cũng tẩm hành mà đẩy vào thêm, rắn càng co mãi, lâu dần ngắn bằng con chạch, vảy trắng da, rất béo ngon.
Ngoài việc được dùng làm món nhậu khoái khẩu, rắn còn được dùng để ngâm "rượu thuốc". Dân nhậu còn kháo nhau rằng thịt rắn độc không những ngon mà còn "nên thuốc" nữa. Chẳng vậy mà tại vùng biên giới Miên - Việt như Tịnh Biên, Châu Ðốc, Tân Châu, Hồng Ngự còn có hai loại rượu thuốc rất nổi tiếng, có tác dụng "bách chiến bách thắng". Ðó là rượu con "cắc kè bay" tức là ba xi đế ngâm với con cắc kè có mang xòe ra như cặp cánh. Loại thứ hai là rượu thuốc ngâm rắn hổ mun. Hai loại rượu này được nổi tiếng là rượu "bà khen". Dân nhậu sau khi lai lai ba sợi, lúc ba ngù giải thích rằng đấng trượng phu nào uống các loại rượu này, nhất là mấy vị lão ông sồn sồn thuộc loại gần... rã bành tô, thế nào cũng được bà xã chẳng những đã không phản đối mà còn... khen hay!
Nhiều ông còn thề sống thề chết trên bàn rượu rằng nhờ nhậu "bà khen" mà đã gần thất tuần vẫn còn có con còn ẵm ngửa! Có điều không rõ vì ba ngù tối ngày, các vị này có "sua" là con của mình không? Chẳng hiểu rượu "bà khen" này có sánh được với loại "nhất dạ ngũ giao sinh lục tử" hay rượu "Mao xếng xáng" không, nhưng tới đây tác giả cảm thấy cần phải có đôi lời cảnh giác, nhất là đối với qúi vị nam nhi gần tới tuổi "retire" súng ống trong tình trạng rỉ sét, đạn dược cũng gần cạn. Nếu qúi vị đọc tới đây thấy bùi tai quá, nên vội vàng đi kiếm rắn ở xứ Cờ Hoa này ngâm rượu để uống với mục đích cao cả để được "bà khen", rủi lỡ bị "bà chê", tác giả sẽ không chịu trách nhiệm đâu. Hiện nay tại Việt Nam có nhiều hãng chế tạo rượu ngâm rắn để bán cho du khách và Việt kiều. Bên Trung Hoa cũng bầy bán công khai những bình rượu thuốc ngâm rắn gọi là "Tam Xà Tửu" (rượu ngâm ba loại rắn) hay "Ngũ Xà Tửu (rượu ngâm năm loại rắn). Nghe đồn, đây cũng là đặc sản"bà khen" của các chú Ba.
Như trên đã nói, rắn không những là món mồi rất bắt và được "bà khen", nhưng còn được phái nữ, tuy đa số rất sợ, nhưng lại vẫn chú ý theo dõi nữa. Lý do vì trong muôn loài sinh vật, kể cả con người, chỉ có rắn là có thể trẻ mãi, cải lão hoàn dồng. Trong số qúi vị độc giả, chắc đã có nhiều người thấy các con vật như chó, mèo, voi, cọp v.v... chết già, nhưng chắc chưa có ai thấy rắn chết vì... có tuổi. Lý do vì khi gần hết xí quách, rắn ta chỉ việc nằm thẳng cẳng, tự lột da là trở thành đào tơ hơ hớ ngay. Có lẽ học được cái quái chiêu "lột da sống đời" này của rắn mà lắm bà nhiều cô đã áp dụng với hy vọng được trẻ mãi. Tác giả thuộc giới đực rựa nên chỉ được nghe đồn hiện nay có phương pháp "lột da" (peeling) giống như rắn nên cho dù phái đẹp tuổi đã sồn sồn nhưng vẫn có thể trẻ đẹp, da dẻ mịn màng như mới "mười mí"! Nếu da mặt chẳng may bị "xếp pli" nhăn nheo như tờ giấy lộn vì phong sương của cuộc đời, chỉ cần ủi, căng và nhất là "lột" như rắn là kéo lại được tuổi thanh xuân ngay. Kỹ thuật "peeling" ra đời là một tin mừng cho nữ giới, nhưng qúi bà qúi cô cũng nên cẩn thận vì nghe nói chỉ công hiệu khi lột da mặt. Nếu qúi nữ giới "thừa thắng xông lên" da chỗ nào cũng đòi lột để trở thành "brand new", rủi bị "ép phê ngược" thì nguy lắm.
Bài phiếm luận đầu Xuân con rắn đến đây đã khá dài, và tưởng cũng đã có "đủ cả đầu đuôi" nên tác giả chẳng giám "họa xà thiêm túc" (vẽ rắn thêm chân). Tuy chủ đề là rắn, nhưng đã được mở đầu và kết thúc bằng loại sinh vật "độc" nhất mà cũng "ngon" nhất trên địa cầu, đó là phái nữ. Ðiều này đã chứng tỏ lòng kính trọng của tác giả đối với con cháu bà Eva, không hề giám "hạ bệ" như chẳng may có ai lầm tưởng. Nhân dịp đầu xuân, với thiện chí cao đẹp mong ước đã giúp vui qúi độc giả được một vài giây phút thoải mái bên ly "tam xà tửu", tác giả bèn nổi hứng vác nàng Kiều của cụ Nguyễn Du ra mà "lẩy" rằng:
"Lời quê góp nhặt giông dài
Mua vui cũng được một vài weekend!"

Với mục đích mua vui trong mấy ngày xuân, giám mong qúi độc giả vui lòng lượng thứ những sơ sót hoặc "đụng chạm" ngoài ý muốn. Mến chúc qúi vị và bửu quyến năm mới An Khang Thịnh Vượng.

TRẦN ÐỖ CẨM
(Austin, Texas Jan. 2013)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét